Xác Ấm - Phần I - Chương 01

Bước một: Khát khao

TÔI ĐÃ CHẾT, NHƯNG CŨNG CHẲNG SAO. Tôi đã học được cách chung sống với
nó. Rất xin lỗi vì tôi không thể tự giới thiệu đàng hoàng, nhưng tôi không còn
tên nữa. Ít có ai trong số chúng tôi còn tên. Chúng tôi đánh mất tên mình như
đánh mất chìa khóa ô tô, quên mất chúng như quên mất những ngày sinh nhật. Hình
như tên tôi bắt đầu bằng chữ “R”, nhưng tôi chỉ nhớ được có thế. Kể cũng buồn
cười, vì hồi còn sống tôi cực kỳ hay quên tên người khác. Anh bạn
“M” của tôi bảo rằng thật mỉa mai thay vì khi đã biến thành Xác Sống thì cái gì
cũng buồn cười, nhưng ta lại không cười nổi, vì môi đã rữa mất.

Chúng tôi trông cũng chẳng lấy gì làm hấp dẫn, nhưng cái chết đã nhẹ tay
với tôi hơn so với nhiều người khác. Tôi mới bước vào giai đoạn thối rữa ban
đầu; chỉ có nước da xám ngoét, cái mùi khó chịu, quầng đen dưới mắt. Trông tôi
gần như một Người Sống đang cần được đi nghỉ thôi. Trước khi biến thành Xác
Sống chắc tôi làm việc trong ngành thương mại, nhân viên ngân hàng hoặc kinh doanh
chứng khoán hoặc một gã học việc trẻ nào đó, vì quần áo tôi mặc trông khá bảnh.
Quần đen, áo xám, cà vạt đỏ. Thỉnh thoảng M lại lấy chúng ra để chọc tôi. Anh
chỉ vào cái cà vạt của tôi rồi cố cất tiếng cười, phát ra một âm thanh khùng
khục, nghèn nghẹt đâu đó từ sâu trong bụng. Anh mặc một cái quần bò thủng lỗ
chỗ và áo phông trắng. Giờ cái áo nhìn gớm lắm rồi. Lẽ ra anh ấy nên chọn áo
màu sẫm hơn.

Chúng tôi thích đùa cợt và đoán già đoán non về quần áo của nhau, vì những
lựa chọn thời trang cuối cùng này là dấu hiệu duy nhất về con người cũ của
chúng tôi, trước khi chúng tôi mất hết nhân dạng. Có những người quần áo còn
chẳng rõ bằng tôi: quần soóc áo nỉ, váy áo điệu đà. Vậy là chúng tôi cứ đoán
bừa.

Cô từng là bồi bàn. Cô từng là sinh
viên. Nghe có quen không?

Chẳng bao giờ nghe quen cả.

[Chúc bạn đọc sách vui vẻ tại www.gacsach.com - gác nhỏ cho người yêu sách.]

Không có ai trong số những người tôi biết có một ký
ức cụ thể. Chỉ vài ý niệm mờ ảo về một thế giới đã không còn nữa. Những ấn
tượng nhạt nhòa về cuộc sống trong quá khứ, vương vấn trong óc như cơn đau ảo
từ những tay chân đã bị chặt. Chúng tôi nhận ra các dấu hiệu của nền văn minh -
nhà cửa, xe cộ, cảnh quan chung chung - nhưng trong đó chúng tôi không có vai
trò riêng nào. Không có lịch sử. Chúng tôi chỉ có mặt ở đây thôi.
Chúng tôi làm những việc mình làm, thời gian trôi qua, và không ai đặt câu hỏi.
Nhưng như tôi đã nói đấy, cũng chẳng sao. Trông chúng tôi có vẻ như không có
đầu óc gì, nhưng không phải vậy. Các bánh răng nhận thức gỉ sét vẫn quay, chỉ
chậm dần, chậm dần cho tới khi gần như chẳng thể nhìn ra được bất kỳ vận động
bên ngoài nào. Chúng tôi gầm ghè và ậm ừ, chúng tôi nhún vai và gật đầu, và
thỉnh thoảng một vài từ bật ra. Cũng chẳng khác trước là bao.

Nhưng việc quên mất tên khiến tôi thấy buồn. Trong
tất cả, tôi thấy đó là điều bi thảm nhất. Tôi nhớ tên mình, và tôi khóc thương
cho tên của những người khác, bởi vì tôi mong được yêu mến họ, nhưng tôi không
biết họ là ai.

***

Có hàng trăm người chúng tôi sống trong một sân bay
bỏ hoang ở bên ngoài một thành phố lớn nào đó. Tất nhiên chúng tôi không cần
nơi trú ẩn hay hơi ấm, nhưng chúng tôi thích có các bức tường bao quanh và một
mái nhà trên đầu. Nếu không thì chúng tôi sẽ chỉ lang thang ở giữa chốn đồng
không mông quạnh, và điều đó có vẻ kinh khủng đến kỳ lạ. Không có gì xung quanh
chúng tôi, không có gì để chạm vào hay nhìn ngắm, không có một đường nét rõ rệt
nào, chỉ có chúng tôi và cái miệng há hốc của bầu trời. Theo trí tưởng tượng
của tôi thì khi chết hẳn ta sẽ có cảm giác như thế. Một cõi hư vô mênh mông
tuyệt đối.

Tôi nghĩ chúng tôi đã sống ở đó lâu lắm rồi. Da
thịt tôi vẫn còn nguyên, nhưng có nhiều người lớn tuổi hơn trông chỉ khá hơn
một bộ xương khô với chút cơ còn sót lại, quắt đi như thịt bò khô. Bằng cách
nào đó những bó cơ ấy vẫn co duỗi, và họ tiếp tục cử động. Tôi chưa hề thấy ai
trong số chúng tôi “chết” vì tuổi già. Có lẽ chúng tôi bất tử, tôi cũng không
biết nữa. Tương lai đối với tôi cũng mờ mịt như quá khứ. Tôi thậm chí còn không
thể tự bắt mình quan tâm đến bất kỳ điều gì ở bên phải hay bên trái hiện tại
nữa, mà hiện tại thì cũng chẳng lấy gì làm khẩn cấp. Bạn có thể nói là cái chết
đã làm tôi bớt căng thẳng.

***

Tôi đang đi trên thang cuốn thì M tìm thấy tôi. Mỗi
ngày tôi lại đi thang cuốn vài lần, bất kỳ khi nào chúng chạy. Nó đã trở thành
một nghi thức. Khu sân bay đã thành hoang phế, nhưng thỉnh thoảng vẫn có điện,
có lẽ là truyền từ một máy phát khẩn cấp nào đó từ sâu tít dưới hầm. Đèn lập
lòe sáng và các màn hình bật lên, các thứ máy móc rủng rỉnh hoạt động. Tôi ôm
ấp từng giây phút ấy. Cái cảm giác rằng mọi thứ như đang sống dậy. Tôi đứng
trên các bậc thang và lên cao dần như một linh hồn đang đi lên Thiên đàng, cái
giấc mơ ngọt ngào của tuổi thơ chúng tôi, giờ chỉ còn là một trò đùa vô duyên.

Sau khi đi đi lại lại khoảng ba mươi lần, tôi đang
đi lên tiếp thì thấy M đứng đợi trên đỉnh thang. Anh là hàng trăm cân cơ và mỡ
phủ lên một khung xương cao hơn một mét chín. Râu ria xồm xoàm, đầu hói, người
bầm dập và thối rữa, bộ mặt gớm guốc của anh hiện ra trong tầm mắt khi tôi đến
đỉnh thang. Anh có phải là thiên thần đứng đón tôi ở cổng Thiên đàng không? Dãi
đen ngòm đang nhỏ ra từ cái miệng tả tơi của anh.

Anh chỉ vơ vẩn về một hướng nào đó và lầm bầm,
“Thành phố.”

Tôi gật đầu, đi theo anh.

Chúng tôi đi tìm thức ăn. Một đoàn đi săn hình thành quanh chúng tôi khi
chúng tôi lê chân về phía thành phố. Không khó tìm người đi cùng trong những
chuyến viễn chinh như thế này, cho dù không có ai đang đói. Ở đây rất ít khi có
một ý nghĩ tập trung, và khi nó xuất hiện thì chúng tôi đều làm theo. Nếu không
chúng tôi sẽ cứ đứng một chỗ và rên rỉ suốt ngày. Chúng tôi đứng một chỗ và rên
rỉ rất nhiều. Hàng bao nhiêu năm trôi qua như thế. Da thịt khô héo đi trên
xương và chúng tôi vẫn đứng đó, đợi cho thịt rữa hết. Đôi khi tôi tự hỏi mình
bao nhiêu tuổi.

***

Thành phố nơi chúng tôi đi săn nằm khá gần. Đến khoảng trưa ngày hôm sau là
chúng tôi đã đến nơi và bắt đầu đi tìm thịt tươi. Cơn đói mới mẻ này quả là một
cảm giác kỳ lạ. Chúng tôi không cảm thấy nó trong dạ dày mình - nhiều người
trong số chúng tôi cũng chẳng còn dạ dày nữa. Chúng tôi cảm thấy nó khắp mọi
nơi trên cơ thể, một cảm giác trống rỗng, chùng xuống, như thể các tế bào trong
người đang xẹp dần. Mùa đông năm trước, khi rất nhiều Người Sống nhập bọn với
Người Chết và mồi ăn hiếm dần, tôi đã phải chứng kiến nhiều người bạn của tôi
chết hẳn. Một biến đổi cũng chẳng lấy gì làm kịch tính. Họ chỉ đi chậm dần, rồi
dừng lại, và một thời gian sau tôi nhận ra họ đã biến thành xác chết. Mới đầu
tôi thấy sợ, nhưng theo đúng phép xã giao thì không nên để ý đến việc một người
trong số chúng tôi chết. Tôi bèn rên rỉ vài tiếng để tự nguôi ngoai.

Tôi nghĩ phần lớn thế giới đã tận diệt, vì những thành phố chúng tôi đi qua
cũng rữa nát như chính chúng tôi vậy. Nhà cửa đổ sập. Xe cộ hoen gỉ nằm chật
đường. Kính vỡ ở khắp nơi, và gió luồn lách qua những tòa nhà cao tầng trống
trải, rền rĩ như một con vật bị bỏ mặc cho đến chết. Tôi không biết chuyện gì
đã xảy ra. Bệnh tật ư? Hay chiến tranh? Xã hội sụp đổ? Hay chỉ vì chúng tôi?
Người Chết đã thế chỗ Người Sống? Tôi đoán là cũng chẳng quan trọng gì. Một khi
ta đã đến tận cùng thế giới thì có đi theo đường nào cũng chẳng thành vấn đề.

Chúng tôi bắt đầu ngửi thấy mùi Người Sống khi đến gần một khu nhà tập thể
hoang phế. Đó không phải mùi hăng hắc của da và mồ hôi, mà lá cái mùi nồng đượm
của năng lượng sống, giống mùi khét của tia chớp và hoa oải hương. Chúng tôi
không ngửi thấy nó bằng mũi. Chúng tôi cảm nhận được nó ở sâu thẳm bên trong,
gần não, giống như mù tạt. Chúng tôi vây quanh khu nhà rồi tìm đường vào trong.

Chúng tôi tìm thấy họ co rúm lại với nhau trong căn hộ một buồng bị chặn
kín cửa sổ. Họ ăn mặc còn tệ hơn cả chúng tôi, người quấn sơ sài những mảnh giẻ
bẩn thỉu và ai cũng đang trong tình trạng rất cần được cạo râu. M sẽ phải đeo
cái bộ râu vàng bờm xờm kia trong suốt quãng đời Da Thịt còn lại của mình,
nhưng mặt mũi tất cả những người khác trong số chúng tôi đều nhẵn nhụi. Đó là
một trong những lợi thế khi đã chết, một việc khác mà chúng tôi không phải bận
tâm nữa. Râu, tóc, móng chân... không còn phải chống lại bản năng sinh học nữa.
Cơ thể hoang dại của chúng tôi cuối cùng thì cũng được thuần hóa.

Một cách chậm chạp, vụng về nhưng cực kỳ quyết tâm, chúng tôi lao vào đám
Người Sống. Những phát súng nổ khiến bầu không khí bụi bặm ngập tràn thuốc súng
và máu. Máu đen sì bắn tung tóe trên tường. Khi bị mất tay, mất chân, hay mất
một phần cơ thể, chúng tôi đều cho qua. Chỉ là vấn đề thẩm mỹ vặt vãnh. Nhưng bị
bắn vào đầu thì chũng tôi sẽ gục ngay. Hẳn là trong cái cục xốp màu xám teo tóp
ấy vẫn còn chút gì giá trị, vì nếu mất nó chúng tôi sẽ trở thành xác chết. Hai
Xác Sống bên phải và bên trái tôi ngã xuống đất kèm theo tiếng loét nhoét.
Nhưng chúng tôi rất đông. Chúng tôi có thể áp đảo họ. Chúng tôi xông vào đám
Người Sống, và chúng tôi ăn.

Việc ăn uống không lấy gì làm thú vị. Tôi nhá nát cánh tay của một người
đàn ông, trong lòng trỗi dậy cảm giác ghét bỏ. Tôi ghét tiếng hét của ông ta,
bởi vì tôi không thích đau đớn, tôi không thích làm hại ai, nhưng đây đã là thế
giới của chúng tôi rồi. Đây là việc chúng tôi phải làm. Tất nhiên, nếu tôi
không ăn hết cả người ông ta, nếu tôi để lại bộ não, ông ta sẽ sống dậy theo
tôi quay về sân bay, và điều đó có thể làm tôi thấy dễ chịu hơn. Tôi sẽ giới
thiệu ông ta với những người khác, và có thể chúng tôi sẽ đứng quanh quẩn và
rên rỉ cùng nhau. Giờ thì khó có thể nói được “bạn bè” có nghĩa là gì, nhưng có
lẽ như thế cũng na ná. Nếu tôi ghìm mình lại, nếu tôi để lại đủ...

Nhưng tôi không làm vậy. Tôi không thể. Cũng như mọi khi tôi ăn phần ngon
nhất, cái phần khiến đầu tôi sáng bừng lên như một cái ti vi. Tôi ăn bộ não, và
trong khoảng ba mươi giây, tôi lại có ký ức. Những hình ảnh thoáng qua của các
cuộc diễu hành, nước hoa, âm nhạc... cuộc sống. Rồi tất cả lại nhạt
đi, và tôi đứng dậy, rồi tất cả chúng tôi lại lê bước ra khỏi thành phố, người
vẫn lạnh ngắt và xám ngoét như trước, nhưng cảm thấy dễ chịu hơn một chút.
Không hẳn là “dễ chịu”, không phải là “vui vẻ”, chắc chắn không phải “đầy sức
sống”, nhưng... bớt giống người chết hơn một chút. Với chúng tôi như thế đã là
tốt lắm rồi.

Tôi tụt lại phía cuối trong khi thành phố lùi dần và biến mất sau lưng
chúng tôi. Bước chân của tôi nặng nề hơn những người khác một chút. Khi tôi
dừng lại ở một vũng nước mưa để rửa máu trên mặt và quần áo, M quay lại vỗ vai
tôi. Anh biết tôi không thích một số lề thói của chúng tôi. Anh biết tôi nhạy
cảm hơn nhiều so với những người khác. Thỉnh thoảng anh lại trêu tôi, quấn mớ
tóc đen bù xù của tôi thành đuôi sam và nói, “Con gái. Đúng là... con gái.”
Nhưng anh biết khi nào thì nên tôn trọng nỗi sầu muộn của tôi. Anh vỗ vai tôi
rồi cứ đứng đó nhìn tôi. Khuôn mặt anh không còn biểu cảm được nữa, nhưng tôi
biết anh muốn nói gì. Tôi gật đầu, và chúng tôi đi tiếp.

Tôi không biết vì sao chúng tôi phải giết người. Tôi không biết nhai cổ một
người thì có lợi ích gì. Tôi ăn cắp những gì ông ta có để bù vào những gì tôi
thiếu. Ông ta biến mất, còn tôi ở lại. Đó là những điều luật áp đặt đơn giản
nhưng vô nghĩa được đưa ra bởi một nhà lập pháp điên rồ nào đó ở trên trời.
Nhưng việc tuân thủ những điều luật đó khiến tôi vẫn còn đi lại được, nên tôi
nhất nhất tuân theo chúng. Tôi ăn cho tới khi không ăn nổi nữa, rồi tôi lại ăn.

Chuyện này đã bắt đầu như thế nào? Tại sao chúng tôi lại biến thành như thế
này? Có phải vì một virus bí ẩn nào đó không? Tia gamma ư? Một lời nguyền cổ
xưa ư? Hay một cái gì đó còn phi lý hơn? Không ai nói về chuyện đó. Chúng tôi ở
đây và mọi chuyện là như thế. Chúng tôi không than phiền. Chúng tôi không hỏi.
Chúng tôi cứ làm việc của mình thôi.

Có một vực thẳm giữa tôi và thế giới bên ngoài con người tôi. Một vực thẳm
rộng tới mức cảm giác của tôi không vượt qua nổi. Đến khi những tiếng hét của
tôi vang vọng sang được bờ bên kia thì chũng đã biến thành tiếng rên rỉ.

***

Ở cổng Đến, chúng tôi được chào đón bởi một đám đông đang nhìn chúng tôi
bằng những con mắt hoặc hốc mắt đói khát. Chúng tôi ném chiến lợi phẩm xuống
sàn: hai người gần như còn nguyên vẹn, mấy cẳng chân béo mập, một khúc mình,
tất cả còn ấm nguyên. Gọi đó là thức ăn thừa cũng được. Gọi đó là thức ăn mang
về cũng được. Những Người Chết xông vào ăn ngấu nghiến ngay trên sàn nhà như
thú vật. Sức sống còn sót lại trong những tế bào ấy sẽ giúp họ không chết hẳn,
nhưng Người Chết nào không đi săn thì sẽ không bao giờ thỏa mãn hoàn toàn cả.
Cũng giống như thủy thủ thiếu rau và hoa quả tươi khi đi biển, họ sẽ chết dần
chết mòn trong sự thiếu thốn, lúc nào cũng yếu ớt và trống rỗng, vì cơn đói mới
nảy sinh là một con quái vật cô đơn. Nó miễn cưỡng chấp nhận thứ thịt đã xỉn
màu và thứ máu chỉ còn hơi âm ấm, nhưng cái nó thèm muốn nhất là sự gần gũi,
mối liên kết khủng khiếp giữa mắt của họ và mắt của chúng tôi trong những giây
phút cuối cùng đó, như một âm bản đen tối của tình yêu.

Tôi vẫy tay chào M rồi rời xa đám đông. Từ lâu tôi đã quen với mùi hôi thối
của Người Chết, nhưng cái mùi bốc lên từ chỗ họ hôm nay nồng nặc một cách đặc
biệt. Tôi không cần thở, nhưng tôi cần chút không khí trong lành.

Tôi đi ra đoạn hành lang bên ngoài và bước lên băng chuyền. Tôi đứng trên
băng chuyền, ngắm cảnh vật trôi qua ngoài cửa sổ. Cũng chẳng có gì nhiều mà
ngắm. Đường băng đang chuyển sang màu xanh vì cỏ dại và bụi rậm mọc dày. Những
chiếc phản lực nằm im lìm trên nền bê tông như những con cá voi mắc cạn, trắng
bệch, to đùng. Moby Dick[1], cuối cùng thì cũng bị chinh phục.

[1] Tên con cá voi trắng huyền thoại trong tiểu thuyết cùng tên (1851) của
nhà văn Mỹ Herman Melville, rất thông minh và luôn tránh thoát được các cuộc
vây bắt.

Hồi trước, khi còn sống, tôi không bao giờ có thể làm được chuyện này. Đứng
im, ngắm thế giới trôi qua trước mắt, gần như không nghĩ gì. Tôi nhớ mình đã
từng phải cố gắng. Tôi nhớ các mục tiêu, các thời hạn. Đích đến và tham vọng.
Tôi nhớ mình đã từng sống có mục đích, lúc nào cũng phải có mặt ở
mọi nơi. Giờ tôi cứ đứng trên băng chuyền, mặc cho nó đưa đi. Tôi đi đến cuối
băng chuyền, quay người, rồi đi theo chiều ngược lại. Thế giới đã được chưng
cất. Làm người chết thật dễ dàng.

Sau khi đi như thế được vài giờ, tôi nhận ra một cô gái trên băng chuyền
đối diện. Cô không đi giật cục hay rên rỉ như phần lớn chúng tôi; đầu cô chỉ
ngoẹo từ bên này sang bên kia. Tôi bắt gặp ánh mắt cô và nhìn cô chăm chăm khi
chúng tôi lại gần nhau. Trong một thoáng, chúng tôi đứng bên nhau, chỉ cách
nhau vài bước. Chúng tôi đi qua nhau rồi tiến về phía cuối sảnh đối diện. Chúng
tôi quay lại trên băng chuyền. Chúng tôi lại đi qua nhau. Tôi nhăn mặt, và cô
ấy nhăn mặt lại. Đi đến lần thứ ba thì điện trong sân bay tắt, và chúng tôi
dừng lại đối diện nhau. Tôi khò khè phát ra một tiếng chào, và cô nhún vai đáp
lại.

Tôi thích cô. Tôi đưa tay ra chạm vào tóc cô. Cũng như tôi, cô mới ở giai
đoạn thối rữa ban đầu. Da cô tái xanh và mắt thâm quầng, nhưng không có khúc
xương hay cơ quan nội tạng nào lộ ra. Đồng tử cô có màu xám kẽm giống như mắt
tất cả những Người Chết khác, nhưng nhạt hơn nhiều. Cô mặc váy đen và áo sơ mi
trắng ôm sát người. Tôi đoán cô đã từng làm tiếp tân.

Trên ngực cô gắn biển tên màu bạc.

Cô ấy có tên.

Tôi nhìn cái biển tên chằm chằm, tôi cúi gần vào, gí mặt vào sát ngực cô,
nhưng chẳng có ích gì. Các con chữ quay tròn, đảo ngược trong mắt tôi; tôi
không thể đọc được chúng. Cũng như mọi khi, chúng né tránh tôi, chỉ là một loạt
những đường nét và dấu chấm vô nghĩa.

Một điều mỉa mai khác của Xác Sống mà M nghĩ ra - từ biển tên cho đến báo
chí, câu trả lời cho mọi câu hỏi của chúng tôi được viết ra ở khắp xung quanh,
nhưng chúng tôi không biết đọc.

Tôi chỉ biển tên và nhìn vào mắt cô gái. “Tên... cô?”

Cô nhìn tôi trân trân.

Tôi chỉ vào mình rồi thốt ra phần còn sót lại của tên mình. “Rrr”. Rồi tôi
lại chỉ vào cô ấy.

Cô đưa mắt nhìn xuống sàn. Cô lắc đầu. Cô không nhớ. Cô thậm chí còn không
có một âm tiết như M và tôi. Cô chẳng là ai cả. Nhưng có phải là tôi đang chờ đợi
quá nhiều không? Tôi đưa tay ra, nắm lấy tay cô. Chúng tôi đi dọc theo băng
chuyền, hai cánh tay vươn qua dải phân cách.

Cô gái này và tôi đã yêu nhau. Hoặc cảm thấy những gì còn sót lại của tình
yêu.

Tôi còn nhớ trước kia tình yêu có cảm giác như thế nào. Nó phụ thuộc vào
rất nhiều nhân tố phức tạp về cảm xúc và sinh học. Chúng tôi phải trải qua
nhiều cuộc thử thách rắc rối, phải thiết lập mối quan hệ, phải có những lúc vui
lúc buồn, nước mắt và những lốc xoáy tình cảm. Thật khó khăn và đau đớn, nhưng
cũng thật tràn trề sức sống. Tình yêu mới này đơn giản hơn. Dễ dàng hơn. Nhưng
cũng ít ỏi hơn.

Bạn gái tôi cũng không nói gì nhiều. Chúng tôi đi xuôi những hành lang âm
vang trong sân bay, thỉnh thoảng ngang qua một ai đó đang đứng nhìn ra cửa sổ
hay nhìn vào tường. Tôi cố nghĩ xem nên nói gì, nhưng chẳng nghĩ được gì cả, và
nếu có thì chắc tôi cũng không nói nổi. Đó là trở ngại lớn nhất của tôi, hòn đá
lớn nhất trong số những hòn đá chắn đường tôi. Trong đầu mình thì tôi ăn nói
hết sức hùng hồn; tôi có thể trèo lên những giàn giáo phức tạp của từ ngữ để
lên đến trần thánh đường cao nhất và vẽ nên những ý nghĩ của mình. Nhưng khi
tôi mở miệng thì mọi thứ đều tan tành hết. Cho đến giờ thì kỷ lục của tôi là
bốn âm tiết liền nhau trước khi một... cái gì đó... mắc kẹt. ấy vậy mà có lẽ
tôi đã là Xác Sống nói năng lưu loát nhất toàn sân bay này rồi đấy.

Tôi không biết tại sao chúng tôi không nói. Tôi không thể giải thích được
sự im lặng ngột ngạt bao trùm lên thế giới của chúng tôi, chia cắt chúng tôi
như tấm kính chắn giữa người tù và người đến thăm. Giới từ thật khó, mạo từ
thật khổ, còn tính từ thì ngoài tầm với. Sự câm lặng này có phải sự tàn tật
đích thực về thể xác không? Một trong số các triệu chứng khi biến thành Người
Chết? Hay là vì chúng tôi không còn gì để nói?

Tôi thử nói chuyện với bạn gái mình, vụng về đưa ra mấy lời nói và những
câu hỏi hời hợt, cố làm cô phản ứng, cố gợi một chút lý trí. Nhưng cô chỉ nhìn
tôi như thể tôi quái dị lắm.

Chúng tôi đi lang thang vô định suốt mấy tiếng, nhưng rồi cô nắm lấy tay
tôi và dẫn tôi đến đâu đó. Chúng tôi lảo đảo đi xuống thang cuốn đã ngừng lại
và bước ra đường băng. Tôi mệt mỏi thở dài.

Cô ấy đang đưa tôi đến nhà thờ.

Người Chết đã xây một thánh đường trên đường băng. Từ thời xa xưa nào đó,
có người đã đẩy các xe cầu thang lại với nhau, thành một giáo đường hình tròn.
Chúng tôi tụ tập lại đây, chúng tôi đứng đó, chúng tôi giơ tay lên và rên rỉ.
Đám Xương Khô già cỗi khua những cánh tay xương xẩu ở giữa vòng tròn và phát ra
những bài thuyết pháp khô khan không lời qua hai hàm răng nhăn nhở. Tôi không
hiểu đó là cái gì. Tôi nghĩ không ai hiểu cả. Nhưng đó là lúc duy nhất chúng
tôi tự động tụ họp ở bên ngoài, dưới bầu trời rộng mở. Cái miệng vũ trụ mênh
mông ấy, với những ngọn núi xa xa như những cái răng trong đầu lâu của Chúa, há
hốc để nuốt chửng lấy chúng tôi. Để nuốt chúng tôi xuống nơi mà có lẽ chúng tôi
thuộc về.

Bạn gái của tôi có vẻ mộ đạo hơn tôi nhiều. Cô nhắm mắt lại và vẫy tay với
một vẻ gần như chân thành. Tôi đứng cạnh cô và im lặng giơ tay lên trời. Theo
một tín hiệu không lời nào đó, có lẽ là bị thu hút bởi sự sùng kính của cô, đám
Xương Khô không thuyết giáo nữa và nhìn chúng tôi chằm chằm. Một trong số chúng
bước tới trước, trèo lên cầu thang chỗ chúng tôi ngồi, và nắm lấy tay chúng
tôi. Nó dẫn chúng tôi xuống vòng tròn bên dưới và giơ tay chúng tôi lên trong
nắm tay xương xẩu của nó. Nó phát ra một tiếng tựa như tiếng hét, một âm thanh
khủng khiếp nghe như tiếng gió thổi qua một cái tù và bị vỡ, to đến giật mình,
làm bầy chim sợ hãi bay vụt lên khỏi ngọn cây.

Giáo đoàn lầm bầm đáp lại, và thế là xong. Chúng tôi đã thành vợ chồng.

Chúng tôi quay trở lại chỗ ngồi trên bậc thang. Buổi lễ lại bắt đầu. Người
vợ mới của tôi nhắm mắt lại và vẫy tay.

Cưới nhau được một ngày thì chúng tôi có con. Một nhóm Xương Khô chặn chúng
tôi lại trong hành lang và giới thiệu chúng với chúng tôi. Một đứa con trai và
một đứa con gái, khoảng sáu tuổi. Thằng bé có mái tóc vàng, da xám, mắt xám,
trước kia có lẽ là người da trắng. Con bé da sẫm hơn, tóc đen, da nâu bủng, cặp
mắt xám trũng sâu. Có lẽ nó là người Ả Rập. Đám Xương Khô đẩy chúng về phía
trước và chúng rụt rè mỉm cười với chúng tôi, rồi ôm lấy chân chúng tôi. Tôi
xoa đầu chúng và hỏi tên chúng là gì, nhưng chúng không có tên. Tôi thở dài, và
cùng bước đi với vợ tôi, nắm tay hai đứa con của chúng tôi.

Tôi không hề trông đợi việc này. Đây là một trách nhiệm lớn. Những Người
Chết còn nhỏ không có bản năng kiếm ăn như những người lớn. Chúng phải được
chăm sóc và rèn luyện. Và chúng sẽ không bao giờ lớn. Bị chững lại vì lời nguyền
của chúng tôi, chúng sẽ cứ bé nhỏ như thế mãi rồi nát rữa, rồi biến thành những
bộ xương con, vẫn cử động được nhưng trống rỗng, với bộ não khô cứng kêu lục
cục trong sọ, và sẽ lặp lại những thói quen và nghi thức của chúng cho đến một
ngày kia, tôi đoán là chính bộ sxương cũng sẽ tan rữa ra, và chúng sẽ biến mất.

Cứ nhìn chúng mà xem. Ngắm chúng khi vợ chồng tôi thả tay chúng ra và chúng
lang thang đi ra ngoài chơi. Chúng trêu đùa nhau và nhe răng cười. Chúng chơi
những thứ còn chẳng phải là đồ chơi: dập ghim và ca uống nước với máy tính.
Chúng cười khúc khích, rồi cười to, nhưng tiếng cười nghe nghèn nghẹt trong cổ
họng khô khốc của chúng. Chúng tôi đã tẩy não chúng, cướp mất hơi thở của
chúng, vậy mà chúng vẫn bám lấy bờ vực. Chúng vẫn cố hết sức chống lại lời
nguyền của chúng tôi.

Tôi nhìn chúng biến vào ánh ngày mờ nhạt ở cuối hành lang. Sâu thẳm trong
tôi, trong một góc tăm tối đầy mạng nhện, tôi cảm thấy có gì đó khẽ giần giật.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3