Nước Nhật mua cả thế giới - Phần I - Chương 02 - Phần 1
II. Tái thiết và cất cánh kinh
tế (1945 – 1965)
Đưa
có cho kẻ đói, ngay tức khắc hắn sẽ nuốt chửng con cá. Nhưng nếu dạy hắn ta câu
cá, hắn ta sẽ có cá ăn suốt đời.
Ngạn
ngữ Trung Hoa
1945 – 1955: Những vết thương
đóng sẹo
Hôm
sau ngày đầu hàng, cả Tokyo đều lao vào cứu lấy những gì còn sót lại trong các
ngôi nhà đổ nát. Họ bới tung các đống gạch vụn để tìm kiếm một vài vật dụng cá
nhân còn có thể dùng được. Một người đàn ông đã lôi ra được một cái chậu bằng
sứ, mà do một phép màu nào đó, hãy còn nguyên vẹn. Một bà lão đã tìm ra một vài
thứ dụng cụ làm bếp và trân trọng xiết chặt lấy chúng trong bàn tay. Khi gặp
một người Mỹ, trên đường, người Nhật đều cúi đầu len lét. Những lá cờ Nhật Bản
đã hoàn toàn biến mất. Lần đầu tiên trong lịch sử, nước Nhật bị chiếm đóng. Các
hạm đội của Đồng minh đã vào bến Yokosuka, trong khi các đơn vị không lực Hoa Kỳ thì đóng tại Tokyo. Dân
chúng Nhật đều rút cả
về cố thủ trong nhà. Họ nghĩ rằng thời kì trả thù đã đến và chờ đợi những hành
động tàn bạo từ phía quân đội Hoa Kỳ. Những nỗi tuyệt vọng và xấu hổ đã không
kéo dài. Rất nhanh chóng, dân tộc Nhật đã trở thành một tấm gương mẫu mực cho
cả thế giới. Nước Nhật đã thua cuộc trong chiến tranh. Đúng! Nhưng nó đã thắng
trong hòa bình.
Sau
những cuộc tranh luận kéo dài ở Washington, Hoa Kỳ đã quyết định không truất
ngôi vua của Nhật hoàng. Những người chủ trương truất ngôi đã cho rằng hoàng đế
là trái tim của một huyền thoại vốn tự xem mình là Thiên hoàng, là hiện thân
của chủng tộc thượng đẳng Nhật Bản, thậm chí là chỗ dựa cho chính sách đế quốc,
sô-vanh và quân phiệt của Nhật. Những người chủ trương giữ lại ngôi báu thì lại
đề cao khuynh hướng dân chủ và tự do từ đầu thời đại Minh Trị, rồi suốt giai
đoạn Taisho cho đến những năm 1910 – 1920. Những người này nhấn mạnh rằng nếu
muốn lập nên ở Nhật Bản một nền dân chủ thực sự thì hoàng đế sẽ giữ một vai trò
ổn định hóa vô cùng cần thiết. Mặt khác, việc truất ngôi và đem xét xử hoàng đế
rất có thể sẽ biến nước Nhật thành bất trị. Những lập luận này đã thắng. Hoàng
đế chỉ bị buộc (và ông đã thực hiện điều đó rất sốt sắng, có lẽ vì đã quá mừng
rỡ là không bị đưa ra xét xử thô bạo như mọt tên tội phạm chiến tranh) phải từ
bỏ các đặc quyền “thần linh” của mình. Hầu hết các quyền lực chính trị của ông
đều bị tước bỏ. Ông chỉ còn là một biểu tượng sống và hợp pháp của dân tộc,
cũng như sự thống nhất của Nhật Bản.
Ngày
1 tháng Giêng năm 1946, hơn bốn tháng sau khi nước Nhật tuyên bố đầu hàng,
hoàng đế Hirohito đã công khai từ bỏ quy chế thần linh của mình trong một chỉ
dụ mệnh danh là “Tuyên ngôn về nhân loại.” Ông đã tuyên bố như sau:
“Các
mối liên hệ giữa Trẫm và thần dân của Trẫm luôn đặt trên sự tin tưởng lẫn nhau
và lòng tôn kính. Chúng không đặt căn bản trên các truyền thuyết và huyền
thoại. Chúng không dựa trên các quan điểm sai lạc cho rằng hoàng đế là thần
linh và chủng tộc Nhật Bản là một chủng tộc thượng đẳng và được thượng đế giao
cho sứ mệnh thống trị thế giới.”
Lần
gặp gỡ đầu tiên giữa tướng Mac Arthur – chỉ huy tối cao các lực lượng đồng minh ở Nhật Bản – và Nhật
hoàng Hirohito không diễn ra ở cung điện theo nghi lễ của hoàng triều mà lại
diễn ra thật đơn giản ở đại sứ quán Hoa Kỳ. Mac Arthur chỉ mặc áo sơ mi và
không đeo cà vạt.
Tư
lệnh tối cao của Hoa Kỳ ở Tokyo bắt đầu công việc bằng cách xóa bỏ quân đội
Nhật. Hai triệu người đã bị giải giáp và gửi về quê quán. Ngoài ra, sáu triệu
quân nhân và dân sự từ các vùng được giải phóng nằm dưới ách thống trị của Nhật
trong khối “Đại thịnh vượng” cũng được đưa về nước. Hai mươi tám tướng lĩnh và viên chức chính
trị của Nhật Bản đã bị đưa ra xét xử. Bảy người trong số này trong đó có tướng
Tojo Hideki – người được xem như một trong các nhân vật chịu trách nhiệm chính
của chủ nghĩa quân phiệt – đã bị kết án treo cổ. Hàng ngàn sĩ quan, hạ sĩ quan
và binh lính khác cũng bị đưa ra xét xử vì đã gây ra những tội ác chiến tranh.
Từ
tháng 11 năm 1945, tướng Mac Arthur đã ra lệnh cho chính phủ Nhật Bản phải thực
hiện năm cải cách cơ bản: Tự do nghiệp đoàn, tự do bầu cử cho phụ nữ, thiết lập
hệ thống trường học tự do, bãi bỏ chế độ chuyên chế và dân chủ hóa hệ thống
kinh tế.
Một
hiến pháp mới, ban hành ít lâu sau đó, đã buộc Nhật Bản phải vĩnh viễn không
được gây chiến. Nước Nhật không được quyền có quân đội riêng mà chỉ được có các
“lực lượng phòng vệ.” Theo yêu cầu dứt khoát của Mac Arthur, điều đó đã được
ghi trong điều IX của Hiến pháp: “Nhân dân Nhật vĩnh viễn từ bỏ chiến tranh xét
như là quyền tối thượng của đất nước.” Mặt khác, theo lệnh của Mac Arthur, các
zaibatsu (tập đoàn công nghiệp và tài chính lớn nằm trong tay một nhóm các đại
gia đình) đã bị dẹp bỏ. Mặc dù, sau này, một số zaibatsu đã khôi phục lại được,
nhưng quyết định này, khi ấy, quả đã là một cú đánh lên nền công nghiệp Nhật
Bản. Những cải cách này đã được dân chúng hoan nghênh nhiệt liệt. Chính phủ
Nhật, với một sự ngoan ngoãn mẫu mực, đã không gây bất cứ trở ngại nào cho việc
thi hành các cải cách, trong khi dân chúng Nhật ngày càng cảm thấy có một nền
tự do mà họ chưa từng bao giờ dám nghĩ đến. Một hòa ước với hầu hết các nước
trong khối Đồng minh cuối cùng cũng đã được kí kết vào tháng 9 năm 1951. Để
chính thức chấm dứt thái độ thù địch, hiệp ước SanFrancisco đã trao trả cho
Nhật Bản chủ quyền của mình, nhưng đồng thời cũng khẳng định Nhật Bản phải trả
lại tất cả các lãnh thổ đã chiếm đóng từ năm 1895. Quan hệ ngoại giao đã được
nối lại giữa Tokyo và 48 quốc gia. Nước Nhật đã dần dần giành lại vị trí của mình
trọng cộng động quốc tế. Chính trong bầu không khí lắng dịu và đầy hi vọng ấy mà người Nhật
đã bắt tay lao động.
Không
chậm trễ, họ dốc toàn tâm toàn lực cho công cuộc tái thiết đất nước. Trong công
việc này, quả thực họ đã nhận được những trợ giúp khổng lồ của Hoa Kỳ và, chẳng
bao lâu sau, Nhật Bản đã nhanh chóng xóa sạch mọi vết tích chiến tranh… bắt đầu
từ Tokyo.
“Với
một sự nhanh chóng đáng kinh ngạc, dân chúng Tokyo đã dọn sạch thành phố.” Thật
là một điều không thể tưởng tượng nổi. Trong vòng 15 ngày, họ đã lập được trật
tự. Đó là “tác phẩm” của dân chúng, vì quân đội đã trở về các doanh trại. Người
Mỹ chỉ đổ bộ đến sau đó. Rất nhanh, trong bức tranh màu xám xịt, màu bao phủ
mọi cảnh sắc Tokyo lúc bấy giờ, đã bắt đầu xuất hiện màu trắng của vỏ bào từ
những ngôi nhà gỗ mới cất. Những ngôi nhà này lúc ấy mới chỉ là những cái chòi.
Và cũng chính từ những cái chòi này đã được xây lại tức tốc ngay trên những con
hẻm trước kia, mà không theo một quy hoạch nào. Phải nói rằng, trong khi vội
vã, người ta đã hoàn toàn làm hỏng mất những vẻ dáng cũ của Tokyo.” – Guillain
kể lại.
Ngay
sau khi các lực lượng đồng minh hoàn tất việc phi quân sự hóa hoàn toàn nước
Nhật vào cuối mùa thu năm 1945, một phái đoàn điều tra của Mỹ, do Edwin Pauley
và Owen Lattimore dẫn đầu, đã đến Tokyo để nghiên cứu cách thức tốt nhất để
Nhật Bản đền bù những thiệt hại do những hành động bạo ngược của mình cho các
nước châu Á. Phái đoàn đã tuyên bố không úp mở với người Nhật là không thể có
chuyện cho phép họ rót những khoản bồi thường dưới dạng các thành phẩm, vì cách
bồi thường này sẽ tạo điều kiện cho nước Nhật tăng cường khả năng công nghiệp
của mình. Theo ý phái đoàn này, nước Nhật phải thực hiện bồi thường dưới dạng
các phân xưởng được tháo gỡ ra, vận chuyển và lắp đặt lại ở các quốc gia, nơi
mà quân đội Nhật hoàng đã thực hiện những tội ác man rợ nhất. Một danh sách
1.000 phân xưởng đã được chuẩn bị sẵn sàng. Người ta cho rằng nước Nhật sẽ
không bao giờ có thể ngoi lên được đến một mức sống cao hơn các nước châu Á
khác. Nếu như 1.000 phân xưởng ấy thực sự được tháo gỡ và chuyên chở ra khỏi
nước Nhật thì, hầu như chắc chắn, Nhật Bản sẽ gặp những trở ngại to lớn trong
việc tái thiết nền kinh tế. Nhưng, rất nhanh ở Washington, người ta hiểu rằng
việc tháo gỡ các phân xưởng là một công việc nhiêu khê và ít có lợi. Cuối cùng,
rất ít thiết bị đã rời khỏi nước Nhật. Vài năm sau đó, khi bước vào cuộc chiến
tranh lạnh, Hoa Kỳ đã thay đổi hoàn toàn các chính sách của mình. Vấn đề “trừng
phạt” từ đó mãi mãi không còn được đặt ra cho nước Nhật nữa.
Tháng
5 năm 1946, nội các đầu tiên được thành lập bởi Shigeru Yoshida, người được
mệnh danh là “Adenauer[5] của
Nhật Bản.” Ít lâu sau, chính phủ đã thông qua kế hoạch phát triển kinh tế đầu
tiên. Kế hoạch này rất khiêm tốn và hầu như chỉ bao gồm công nghiệp than đá.
Mục tiêu hàng đầu được đặt ra cho năm 1947 là sản xuất 30 triệu tấn than, một
khối lượng tối thiểu vừa đủ cho hoạt động của các phân xưởng còn có khả năng
hoạt động, cùng một phần thặng dư khiêm tốn là ba triệu tấn để khởi động lại
các phân xưởng. Nước Nhật đã quá kiệt quệ để có thể hi vọng có một sự phát
triển nhảy vọt. Đối với các nhà kinh tế Nhật Bản, việc ưu tiên cho than đá là
giai đoạn đầu có tính chất sống còn để thực hiện các mục tiêu phát triển bước
đầu. Bất chấp những khó khăn vật chất vô cùng nghiêm trọng, năm 1947, Nhật Bản
đã công bố mức sản xuất thực tế là 29.3 triệu tấn than. Thế là mục tiêu đã đạt
được. Từ nay, việc phục hồi nền công nghiệp nặng đã có thể bắt đầu. Và sự phục
hồi đó đã trở thành hiện thực: sản xuất công nghiệp của Nhật Bản đã tăng 22 %
vào năm 1947 và 46 % vào năm 1948.
[5] Adenauer: Thủ tướng Tây Đức từ
năm 1949. Được tái cử các nhiệm kì 1953, 1957, 1961. Chủ tịch Đảng Dân chủ -
Thiên chúa giáo, người kịch liệt chống chủ nghĩa Mác, theo chủ nghĩa dân tộc và
có xu hướng tự do trong kinh tế.
Nước Nhật xây dựng lại các
thành phố
Trong
vòng chưa đầy ba năm, Tokyo với 90 % diện tích bị san bằng bởi bom đạn, đã tìm
lại dáng dấp một đô thị con người. Tokyo vẫn còn là một thành phố được chắp vá
bằng gỗ tạp, nhưng ở đây, tất cả mọi thứ đều hoạt động. Tàu hỏa bắt đầu chạy
lại. Xe buýt cũng vậy. Hồi chiến tranh, phương tiện di chuyển phổ biến nhất là
tàu hỏa hoặc xe đạp. Từ đầu những năm 50, hãng Hino Nhật Bản đã sản xuất một
dạng xe ba bánh nhỏ mà mỗi khi di chuyển, nó lại phát ra những tiếng nổ lạch
bạch như cái tên “Bata bata” của nó với một làn khói mù mịt. Ít lâu sau, cũng
hãng Hino này đã sản xuất ra những chiếc xe hơi thực thụ đầu tiên của thời đại
hậu chiến, bắt chước kiểu xe 4 CV Renault. Điện báo và các dịch vụ bưu chính
cũng được khôi phục. Ưu tiên hàng đầu: trường học được mở lại trong một thời
gian kỷ lục. Thậm chí người ta đã thấy đây đó xuất hiện những khung thép đầu
tiên của các ngôi nhà cao tầng. Các viên chức chính phủ Nhật, bao gồm cả bộ
trưởng Bộ Ngoại giao, đã được đưa về sống ở các lán bằng gỗ. Dần dần, Tokyo đã
khoác dáng dấp một thành phố với những ngôi nhà kiểu “hộp giày” nối đuôi nhau
thành hàng với các gian buôn bán ở tầng trệt và chỗ ở trên tầng hai. Tất cả
được bao bọc bởi một mạng lưới chằng chịt những dây điện lủng lẳng trên các cột
điện bằng gỗ hoặc bê tông. Chỉ vài năm sau khi chạm đến đáy vực thẳm, Tokyo đã
thể hiện rõ ý muốn dẫn đầu trong số các thủ đô của châu Á.
Dù
vậy, sự nghèo đói hãy còn rất lâu mới có thể biến mất. Rất lâu. Các năm 1946 và
1947, Mac Arthur đã tổ chức chuyển đến Nhật Bản nhiều toa hàng tiếp tế. Dân
chúng Nhật thường xuyên bị đói. Người ta ước tính rằng, trong các thành phố,
mỗi người dân chỉ ăn một khẩu phần khoảng 1.000 calori mỗi ngày. Lúc mới đầu
hàng, nước Nhật có 22 triệu người không nhà ở. Mười triệu người Nhật tức khoảng 1/3 số người thuộc
lứa tuổi lao động bị thất nghiệp. Những người bị ảnh hưởng nhiều nhất là những
người Nhật bị trục xuất về nước.
Tôi
đã phỏng vấn một linh mục Pháp, ông Marcel Le Dorze. Ông này đến Nhật vào năm
1952. Tôi đến gặp ông tại trung tâm truyền bá công giáo Shinsei Kaikan ở quận
Shinomachi, giữa thủ đô Tokyo.
“Năm
1952, nước Nhật chìm ngập trong sự đói nghèo. Tôi không nói là khốn cùng nhưng
nghèo khổ thì chắc chắn. Dân thành thị trông đúng là thảm hải. Các ngôi nhà
chọc trời mà chúng ta thấy ngày nay ở Tokyo thật ra mới chỉ được bắt đầu xuất
hiện từ những năm 60. Khắp nơi, trong thành phố chỉ thấy những đường là đường…
những con đường sụt lở. Năm 1952, ở Tokyo không có lấy một con đường trải nhựa.
Đường sắt đã hoạt động. Nó không được tiện nghi lắm nhưng dù sao cũng là hoạt
động. Thành phố không có xe hơi. Vài chiếc xe duy nhất đều là xe Mỹ. Những
chiếc xe hơi Nhật Bản đầu tiên được sản xuất khoảng năm 1958. Dân Nhật tuyệt
đối không biết đến nghỉ lễ. Trong ngôn ngữ Nhật không có từ này. Ngày chủ nhật,
mọi người vẫn làm việc. Mỗi người làm việc cả bảy ngày mỗi tuần và, thông
thường, một cường độ lao động như vậy cũng không đủ nuôi gia đình. Những người
Thiên chúa giáo tự cho phép mình thói quen xa xỉ là đi lễ mỗi chủ nhật, một
ngoại lệ trong xã hội Nhật Bản. Ngày lao động ở đây dài vô tận. Thời điểm kết
thúc ngày lao động thường không cụ thể. Chỉ bắt đầu từ năm 1959 người ta mới
dần dần áp dụng chế độ mỗi tháng nghỉ hai chủ nhật (chủ nhật thứ hai và thứ tư
hoặc chủ nhật thứ nhất và thứ ba). Về phần trẻ em, mặc dù thời buổi khó khăn là
vậy, chúng vẫn không phải lao động và phải cắp sách đến trường cho đến năm mười
lăm hoặc mười sáu tuổi.”
Mọi
người có nghĩ đến việc tái thiết đất nước, hiến dâng mình và hi sinh vì đất
nước không?
“Theo
tôi thì cuộc sống khi ấy quá khó khăn đến mức mọi người chỉ lo trước hết cho sự
tồn tại của bản thân. Đó là một cuộc đấu tranh sinh tồn. Sự thiếu dinh dưỡng
thể hiện rất rõ rệt trên đường phố. Rất ít người trông còn có sức sống. Bệnh
lao phổi hoành hành khắp nơi, cũng từa tựa như bệnh ung thư ngày nay vậy. Người
ta sống trong những ngôi nhà bằng gỗ. Đồ đạc không có. Các bức tường đều làm
bằng ván, sàn bằng đất nện, nhà chỉ có một phòng duy nhất. Chiếu được sử dụng
như một loại ‘giường xếp’, được đem cất vào một góc cho rộng chỗ, khi cả gia
đình thức dậy. Đến cơm bữa, người ta lôi ra sử dụng những chiếc bàn xếp. Buổi
tối, mọi người nằm ngủ cạnh nhau trong cùng một phòng. Thường, mỗi gia đình chỉ sống trong một căn
phòng cỡ bốn mét vuông. Bản thân tôi sống ở một khu phố bình dân thuộc quận
Ueno của Tokyo. Quanh nhà tôi có vô số những quầy sạp của tiểu thương và thợ
thủ công. Chính ở nơi đây, tôi đã sống từ lúc mới đến. Trong công viên Ueno,
các đường hầm nhà ga đã bị biến thành nơi tá túc. Đó là nơi trú ngụ của những
người lính giải ngũ trở về từ Đài Loan, Triều Tiên, Mãn Châu hoặc từ các nước
khác ở châu Á. Họ là những người ‘chân đen’ của Nhật Bản. Họ có đến hàng ngàn
người sống trong quận, ngay cạnh nơi tôi cư ngụ.”
Trong
sự bần cùng ấy, dù sao cũng có một nét đặc điểm trái ngược với các nước khác ở
châu Á: rất ít ăn mày. Tất nhiên cũng có những người đi quyên tiền từ các chùa
chiền, nhà thờ, giáo hội. Nhưng ăn xin thì hầu như không. Những cảnh cướp bóc
cũng là những hiện tượng hiếm hoi. Tuy nhiên, chợ đen thì lại nhan nhản khắp
nơi. Đối với nhiều người, đó là phương tiện duy nhất đề tồn tại. Một bộ phận
lớn dân Tokyo là những nông dân mới kéo đến sống ở thủ đô. Rất hiếm những gia
đình có gốc gác ở Tokyo từ nhiều thế hệ. Người ta cũng thường xuống dưới quê để
mua rau quả và đem bán lại ở thành phố. Thuốc men, nhất là Pesnicilline và các
loại kháng sinh, rất hiếm và đắt như vàng. Nhiều người bệnh, do không có điều
kiện mua thuốc, đã đành phải chịu chết. Không hề tồn tại bất kì hệ thống bảo
hiểm nào cho người bệnh và khi người chủ gia đình lâm bệnh thì sẽ là cả một
thảm họa cho gia đình. Nhiều gia đình trưởng giả phá sản không muốn chen chân
vào thị trường chợ đen đành phải rơi vào cảnh bần cùng và đôi khi phải chết
đói. Nạn mãi dâm tái xuất hiện ì xèo. Nhưng đó không phải là một thứ mãi dâm
thanh lịch và kín đáo của các geishas ở Tokyo thời tiền chiến mà là các nhà
chứa thuộc hạng thô thiển nhất, nơi da thịt, với giá mạt hạng nhan nhản trong
các ngôi nhà và đặc biệt để mua vui cho quân đội Hoa Kỳ.
Liên minh với Hoa Kỳ: một sự
đổi mới
Có
hai sự kiện đã giúp Nhật Bản cơ hội để thanh toán dứt điểm sự đình đốn: cuộc
chiến tranh Triều Tiên năm 1950 và thế vận hội Olympic năm 1964. Cuộc chiến
tranh Triều Tiên đã khiến nước Nhật, từ thân phận một kẻ thù bị đánh bại nhục
nhã, được nâng lên thành một đồng minh ưu ái của Hoa Kỳ. Tại sao vậy? Cuộc
chiến Triều Tiên kéo dài ba năm trời. Một lần nữa, nó đẩy Hoa Kỳ vào một cuộc
chiến trên sân khấu Á châu. Cuộc xung đột này mang đầy tính chất hủy diệt. Hàng
chục ngàn binh sĩ Hoa Kỳ đã phải bỏ mạng. Là người láng giềng của bán đảo Triều
Tiên và của nước Trung Hoa cộng sản vốn chiến đấu sát cánh với quân đội Bắc
Triều Tiên, nước Nhật nghiễm nhiên trở nên vô cùng cần thiết đối với Hoa Kỳ để
làm hậu phương cho quân đội mình. Mối quan hệ giữa Hoa Kỳ và Liên Xô khi ấy
cũng đang chuyển sang gay gắt. Với vai trò là một hậu cứ khổng lồ cho quân đội
Mỹ, quần đảo Nhật Bản bỗng trở nên một tiền đồn chiến lược vô cùng quý giá đối
với Washington. Chính vì vậy, chính phủ Mỹ đã phải xem xét lại toàn bộ những
chính sách của mình đối với nước này. Thoạt đầu, Mỹ đã từng dự kiến cùng các
nước đồng minh cầm chân Nhật ở một mức độ phát triển trung bình và hòa bình.
Nhưng, kể từ năm 1950, chẳng còn ai nhắc đến chuyện bồi thường cho các quốc gia
nạn nhân của cuộc chiến Thái Bình Dương nữa. Chẳng những thế, Hoa Kỳ còn quyết
định bơm nước Nhật lên để biến nước này thành thành trì của “thế giới tự do”
ngay sát Trung Quốc và Liên Xô.
Để
làm điều đó, cần phải tiếp sức cho Nhật đủ mạnh và đảm bảo được vai trò lá chắn
của phương Tây trong khu vực này của thế giới. Đối với Nhật Bản, việc liên minh
với Hoa Kỳ là một vận hội lớn để phát triển. Nó đảm bảo cho Nhật sự che chở
quân sự của một cường quốc mạnh nhất thế giới, đồng thời cũng cho phép Nhật với
tới những kĩ thuật tinh vi nhất và vươn tới một thị trường rộng lớn và giàu
mạnh nhất của thời đại. Được sự trợ giúp của Hoa Kỳ, chủ nghĩa tư bản Nhật Bản
nhanh chóng hồi sinh và đảm bảo cho nước Nhật một mức tăng trưởng kinh tế cao
nhất thế giới. Nền tảng của kì công ấy là một chính sách công nghiệp chặt chẽ
của chính phủ Nhật Bản, đặt ưu tiên cho việc phát triển công nghiệp nặng, than
đá và năng lượng điện. Kể từ ngày ấy, nước Nhật đã dứt khoát tập trung mọi nỗ
lực vào chất lượng sản phẩm. Trong các xí nghiệp lớn, người Nhật đã bắt đầu tập
trung sự chú ý và các “vòng tròn chất lượng” đầu tiên. Bắt đầu từ đó, các sản
phẩm hướng về xuất khẩu của Nhật Bản đều có thể xem là đồng nghĩa với chất
lượng.
Ngày
nay, mọi việc đã được sáng tỏ: cuộc chiến tranh Triều Tiên đã giúp cho nền công
nghiệp Nhật Bản có được một sự đột phá khổng lồ. Cùng với cuộc chiến tranh Việt
Nam ít lâu sau đó, nó đã tạo nên một trong những yếu tố chìa khóa cho việc phục
hưng nền kinh tế Nhật Bản. Các xưởng Nhật Bản đã đổ xô và sản xuất hàng loạt
những vật dụng do Hoa Kỳ đặt hàng. Trước hết là các xe tải, các linh kiện rời,
các máy công cụ, hàng dệt và than đá. Trong các lĩnh vực này, công nghiệp Nhật
Bản đã nhanh chóng đạt lại mức sản xuất trước chiến tranh. Sau đó, với sự cho
phép của đồng minh, Nhật đã bắt đầu sản xuất các vũ khí hàng loạt để phục vụ
cho quân đội Hoa Kỳ.
1955 – 1965: “phép lạ Nhật Bản”
Năm
1955, nước Nhật lại được dịp tô điểm thêm chút ít chân dung của mình trên sân
khấu quốc tế với việc gia nhập FMI (Quỹ tiền tệ quốc tế) và GATT (Hiệp định
chung về mậu dịch và quan thuế). Ngày đó đánh dấu sự mở đầu của “Phép lạ kinh
tế Nhật Bản”. Mười năm sau chiến tranh, nước Nhật đã lập lại được mức thu nhập
bình quân đầu người của thời kì trước chiến tranh (1934 – 1936). Bắt đầu từ năm
1955, Nhật Bản đã không ngừng là vô địch tuyệt đối về chỉ số tăng trưởng của
GNP (Tổng sản lượng quốc gia). GNP đo lường mức sản xuất của một quốc gia bằng
hàng hóa và dịch vụ cũng như mức lợi nhuận của nhà nước, cùng các tích sản hoặc
nhân lực của nó ở nước ngoài. Với sự khẳng định đáng gờm này, nước Nhật đã giành lấy cho mình hình ảnh
của một con sư tử. Chỉ số tăng trưởng đã đạt mức bình quân là 9,9 % trong suốt
thập niên 1955-1965: một kỷ lục trong thế giới về công nghiệp hóa! Cho tới năm
1958, những người nghiên cứu về hiện tượng Nhật Bản đã liên kết sự tăng trưởng
này với những kết quả của công cuộc tái thiết lại sau những tàn phá nặng nề của
chiến tranh. Nhiều người đã nghĩ rằng sự tăng trưởng này sẽ chậm lại trong các
năm kế tiếp. Nhưng điều đó đã không diễn ra. Ngược lại, chỉ số tăng trưởng vẫn
tiếp tục cất cánh. Dưới sự dẫn dắt của Bộ trưởng Tài chính Ikeda Hayato, người
sau này trở thành thủ tướng Nhật trong những năm 1960-1964, nước Nhật đã thực
hiện được thành tích thu nhập quốc gia tăng gần gấp đôi trong vòng sáu năm từ
1959 đến 1964. Đó chính là mục tiêu do chính phủ Kishi đặt ra vào năm 1959 và
được công bố vào tháng 12 năm 1960. Nhưng chương trình “Shotoku baizô keikaku”
này đã dự kiến thời hạn 10 năm để đạt mục tiêu, trong khi trên thực tế Nhật Bản
chỉ bỏ ra có sáu năm.
------
Chỉ số tăng trưởng của GNP ở |
|||
Tên nước |
1950-55 |
1955-60 |
1960-65 |
Nhật |
12,1 |
9,7 |
9,6 |
Hoa Kỳ |
4,3 |
2,2 |
4,5 |
CHLB Đức |
9,3 |
6,3 |
4,8 |
Pháp |
4,3 |
4,6 |
5,1 |
Anh |
2,7 |
2,8 |
3,3 |
Canada |
4,7 |
3,3 |
5,5 |
Ý |
6,0 |
5,5 |
5,1 |
OCDE |
5,2 |
3,5 |
4,9 |
* Nguồn: Thống kê của OCDE |
Những
thành quả của Nhật Bản Thật là kì diệu: thu nhập quốc gia đầu người tăng từ 162
đô la trong năm 1952 lên đến 694 đô la trong năm 1965 với GNP từ 17 tỷ đô la
lên đến 84 tỷ đô la! Ngay từ năm 1965, Nhật Bản đã vượt xa các nước láng giềng châu Á của mình.
GNP/đầu người của Nhật Bản đã đạt mức xấp xỉ bằng một nửa của Anh, Tây Đức,
Pháp và bằng khoảng ¼ của Hoa Kỳ. GNP của Nhật Bản đã bắt đầu bỏ xa Ý và
Canada. Nhật Bản vươn lên chiếm vị trí thứ năm về GNP trong số các quốc gia
không cộng sản, đứng sau Hoa Kỳ, CHLB Đức, Anh và Pháp. Năm 1965, Nhật Bản
nghiễm nhiên gia nhập câu lạc bộ các siêu cường.
Sự
tăng trưởng kì lạ này xuất phát từ mức tăng sản xuất công nghiệp gần như theo
cấp số nhân, đặc biệt là các hàng thành phẩm. Chỉ số sản xuất của công nghiệp
chế tạo đã tăng từ 46 (năm 1955) lên 100 (năm 1960) và 171 (năm 1965). Công
nghiệp nặng, công nghiệp máy móc và nhất là công nghiệp hóa chất đều phát triển
rất nhanh. Năm 1963, Nhật Bản đã đuổi kịp các nước OCDE (Tổ chức hợp tác và
phát triển kinh tế).