Phần Hồn - Chương 10 - Phần 1
10.
Từ đó, thằng Út xách đồ
theo thầy Tám học nghề. Nó ăn ở luôn trong nhà thầy. Khi nào không có nơi kêu
thầy đi bơm tinh hay chữa bệnh cho bò, nó ở nhà làm từ đầu sớm tới tối khuya đủ
thứ việc cực nhọc và không tên trong nhà do vợ thầy sai bảo. Bà vợ thầy căm
ghét nó chỉ bởi nhà đông con, lớn có, bé có, thầy không chọn đứa nào theo phụ
lại gọi thằng khùng con cái nhà trời ơi, việc không biết giúp được bao nhiêu
nhưng nuôi cơm nó quanh năm ngày tháng là tốn đã. Hơn nữa, nó chính là đứa tặng
cho chồng bà nhát chém để đời trên mặt. Vừa bất bình với chồng, vừa tiếc cơm,
tiếc của, bà quyết vắt cho nó kiệt sức và lúc nào mắng chửi được thì rủa xả
thật cay nghiệt cho bõ tức. Nhưng những ngày có nơi mời, được theo thầy, Út lại
sướng như vua. Thầy Tám như vị cứu tinh của dân nuôi bò khắp vùng. Cả Long An,
Mỹ Tho, Thủ Dầu Một, Tây Ninh, Biên Hòa... đều biết tiếng thầy. Đi tới đâu là
ăn ngon ngủ ấm. Không nơi nào kêu thầy đến không có nhậu. Tùy mức độ công việc
và sự rộng hẹp của gia chủ mà cuộc nhậu lớn hay nhỏ. Út không thuộc hàng được
ngồi nhậu cùng thầy nhưng chỉ khoản ăn theo cũng ngon lành hơn chục lần ở nhà.
Nó lớn phổng trông thấy. Càng lớn càng đẹp trai, to xương, vạm vỡ. Nhưng vẫn
là... thằng khùng. Thầy Tám không cần nó khôn. Thầy vẫn hay nói: cái vẻ khùng
khùng dại dại của mày rất hợp với loài bò. Út tin thầy nói thật. Càng đi nhiều,
tiếp thu nhiều kinh nghiệm của thầy, nó càng thấy nó với loài bò nói riêng và
loài vật nói chung, bất kể quen hay lạ, đều luôn dễ thân thiện và có mối đồng
cảm như thể nói chuyện được với nhau. Nhiều trường hợp bò bệnh, thầy chưa kịp
quan tâm, Út chỉ đến sờ sịt, lẩm bẩm đôi câu, hoặc chỉ cho uống nước trắng, cho
nhai mấy trái ổi xanh là bò khỏi bệnh, cứ như chính con bò đã nói với nó mình
bệnh vì thiếu mấy thứ vớ vẩn này nọ. Còn vụ bơm tinh bò, mười lần Út được thầy
Tám cho phép thực hiện thì cả mười lần bò mẹ sinh nở mẹ tròn con vuông và đặc
biệt, đều trúng bê cái, con nào con nấy đều tốt giống, cho nhiều sữa. Thoạt
đầu, thấy Tám cho đó là chuyện ngẫu nhiên, không quan tâm, suy diễn và gắn liền
các sự kiện lại. Nhưng các gia chủ lại chú ý. Người nọ truyền miệng người kia.
Người nói thằng Út
mát tay, người nói nó chính là thầy bùa. Chuyện đến tai, thầy Tám mới để tâm
quan sát và thừa nhận những cảm năng đặc biệt với loài vật của Út có giá trị
thực hành hiệu quả vượt ra ngoài phương pháp chữa bệnh bằng kiến thức và kinh
nghiệm thầy đang có. Song đó lại là điều không thể giải thích cho thiên hạ,
không ít người vẫn tin chắc Út là thằng khùng, còn số người khác lại bán tín
bán nghi nó là con của thánh. Tiếng đồn càng lan rộng, thầy Tám không những
không đính chính mà còn tô vẽ phụ họa, thậm chí còn may cho nó bộ đồ đồng bóng
để tăng thêm vẻ “thánh”. Thầy và thằng Út thành cặp bài trùng âm dương, càng
huyền bí lại càng đắt khách.
Theo thầy Tám được hơn
bốn năm, khi Út bước sang tuổi mười bảy cũng là lúc miền Nam được giải phóng.
Đàn bò khắp mấy vùng Gò Vấp, Long An, Sông Bé, Tây Ninh, Đồng Nai đang đông đúc
bỗng sụt xuống, mười phần còn chưa tới một. Có gia chủ đi di tản, có gia chủ
hoang mang bỏ nghề vì chính sách không phù hợp, vì các cơ sở thức ăn gia súc
tan rã; có gia chủ bán bớt bò, chỉ giữ lại đôi con nghe ngóng tình hình, hai
thầy trò gần như thất nghiệp. Thầy Tám khuyên thằng Út về nhà nhưng nó nhất
định không chịu. Những ngày bị hắt hủi, bị ruồng rẫy giữa những người ruột thịt
là vết đau quá đậm suốt thời thơ ấu, giờ đây chỉ nghĩ đến nó vẫn còn sợ.
Mười bảy năm sống trên
cõi đời là cả mười bảy năm không quanh quẩn quanh chuồng bò nhà mình cũng quanh
quẩn chuồng bò nhà người khác, đã tạo cho thằng Út thói quen không để tâm gì
đến người, việc và đời sống bên ngoài chuồng bò. Chiến tranh hay hòa bình, quốc
gia hay cộng sản, rồi chuyện miền Nam giải phóng hay đổi chính quyền, đất nước
thống nhất... chẳng gây xao động nào trong nó. Thầy trò nó đang làm, không hết
việc bỗng nhiên nghỉ chơi dài không ai gọi đi bơm tinh hoặc chữa bệnh cho bò,
thầy nó bỗng nhiên bỏ thói quen cứ ra khỏi nhà là mặc bộ đồ ka-ki vàng, kiểu sĩ
quan quân đội Pháp, là hai sự kiện lớn nhất đối với nó. Kinh tế nhà thầy nó
không có nguồn thu từ nghề của thầy, suy sụp thấy rõ. Ba đứa con lớn của thầy
đi di tản không có tin tức gì. Vợ thầy và những đứa con nhỏ hoàn toàn xuôi tay
trước thời thế. Bà không còn cay nghiệt với nó như trước. Thời gian đã khiến bà
hiểu nó và hối hận về thái độ không phải của mình. Giờ đây, vẻ khùng khùng điên
điên của nó lại được việc và là nguồn năng lực duy nhất nhặt nhạnh từng đồng
từng cắc về đưa bà đi chợ mua gạo và thức ăn. Nó cứ đi lang thang ra những chợ
trời mua bán đồ, không ai nhờ, cũng cứ lăn vào bốc vác, ai cho bao nhiêu cũng
cầm. Nó khùng nên cũng không ai nỡ xử xấu.
Nhưng thời quá độ ấy chỉ
kéo dài vài tháng. Vào buổi sáng cuối tháng bảy, một chiếc xe jeep biển số đỏ
cắm cờ Giải phóng đậu xịch trước cửa nhà thầy Tám. Từ trên xe nhảy xuống là Bảy
Thiện, mặt mày hớn hở. Cùng theo Bảy là người đàn ông, vai ngang, gầy ốm vận bộ
đồ bộ đội, bên hông kè kè khẩu súng lục, cỡ tuổi ngót năm mươi, mặt giống ông
Hai Rỡ như tạc. Lúc ấy, ngoài nhà chỉ có thằng Út và thầy Tám đang bận khiêng
cái tủ thờ ra cửa để chờ mối đến mua.
Bảy Thiện dẫn người đàn
ông xộc thẳng vào nhà.
- Khùng. Anh Hai về. -
Thấy Út ngẩn ngơ chưa hiểu, Bảy cười hề hề nói như hét với thằng điếc. - Anh
Hai đi cách mạng đã về. Ảnh đến đón mày.
Người đàn ông được giới
thiệu là anh Hai xởi lởi ôm chặt Út, nước mắt đầm đìa đôi hốc mắt gian nan:
- Em giống má nhiều hơn.
- Gã bùi ngùi đẩy Út xa một khoảng để ngắm nghía. - Không thể tưởng tượng nổi
sự quái gở của chủ nghĩa thực dân mới. Nhà có đàn bò mấy chục con mà để con
trai đi ở đợ. Nhưng từ nay đổi đời rồi. Anh đánh xe tới đây để rước em về đấy
Út.
Thầy Tám chưa kịp hoàn
hồn, lập cập chìa tay về phía vị khách:
- Rất hân hạnh được làm
quen với quý anh.
Vị khách nghiêm mặt,
không đón nhận cái bắt tay làm thầy Tám sượng sùng cười như mếu.
- Anh là Tám thú y, kẻ
gây ra cái chết của con Tư em tôi hả? - Vị khách chỉ mặt thầy Tám. - Rồi tôi sẽ
nói chuyện riêng với anh sau.
Thầy Tám tái ngắt như gà
cắt tiết, luống cuống lùi lại, nhủn chân gieo phịch xuống chiếc đi-văng mút bọc
len.
- Không... không phải
tôi... Quý anh hiểu nhầm...
- Được rồi. Sẽ có chỗ để
anh trình bày. - Vị khách quay qua giục Út. - Mặc quần áo rồi soạn đồ về với
anh.
Út không mừng rỡ chút
nào. Lời đe dọa của anh Hai nó như đòn búa bổ giữa đầu thầy Tám đã khiến niềm
vui suýt có trong nó không sao lóe lên được. Nó xót thương cho thầy. Người được
Bảy nói là anh Hai hoàn toàn xa lạ với nó. Khi nó và cả Bảy Thiện ra đời, trong
nhà đã không có anh Hai. Rồi suốt những năm tháng tiếp theo, nó không nghe bất
kì ai trong nhà nói đến anh Hai, không một dấu tích, không một tấm hình nào
trong nhà ghi nhận sự có mặt của anh Hai. Tuy nhiên, khi được ngồi với người anh
quyền thế trên chiếc xe jeep oai phong, cờ bay phấp phới, chạy vù vù trên đường
phố quen thuộc, trong nó cũng nhen nhúm niềm hi vọng. Ngọn lửa hi vọng bật nhảy
rất nhanh từ những khao khát bấy lâu vẫn nén ngầm trong nó. Biết đâu, nhờ anh
Hai về, từ đây nó sẽ không còn bị ai gọi là thằng khùng.
Hai Vương ngồi ở ghế
trước, cạnh lái xe, ngoảnh mặt xuống, thân mật đặt bàn tay lên gối Út:
- Thằng Năm đã báo cáo
rất kĩ với anh về
hoàn cảnh của em. Từ nay, sẽ không ai được gọi em là thằng khùng, và khinh miệt
em nữa. Bệnh của em là bệnh xã hội, một sản phẩm bế tắc của chủ nghĩa thực dân
mới. Anh sẽ đưa em đến bệnh viện tâm thần để điều trị. Có hòa bình là có tất
cả. Chủ nghĩa xã hội có nhiều bác sĩ giỏi chữa bệnh không lấy tiền. Anh sẽ nói thằng Năm lo cho em đi
chữa bệnh.
Bảy Thiện ngồi với Út ở
băng ghế sau, thật thà nói:
- Anh chớ có tin anh Năm.
Ở nhà này ai mạnh là ảnh theo à.
Hai Vương lườm Bảy.
- Mày nói không có lập
trường gì hết trọi. Chưa bao giờ cách mạng bằng hôm nay, có chân lý sáng ngời
như hôm nay, vậy nó theo cách mạng là sai hả? Thằng Năm có ý thức giác ngộ sớm
nhất nhà này, anh tin nó là có tính quy luật. Chỉ riêng việc nó trốn lính, sống
chui sống lủi khắp hang cùng ngỏ hẻm còn hơn làm bia đỡ đạn cho Mỹ, cầm súng
bắn lại đồng bào, đủ để anh đánh giá cao nó và tin cậy nó nhất nhà.
- Ảnh thua bạc bị truy nợ
nên phải chạy trốn... - Bảy giãi bày...
- Tao biết chuyện đó. -
Hai Vương nóng nảy cắt lời. - Đó chỉ là dư luận do bạn xấu tung ra nhằm bôi nhọ
những ai trốn quân dịch...
Hai Vương hăng hái nói
tiếp với Út:
- Anh về, cả nhà phải
thay đổi tận gốc rễ, nếu không sẽ lạc hậu với lịch sử hàng thế kỷ. Ở ngoài Bắc,
anh tin chắc nhà mình ít nhất cũng phải có hai thằng tham gia hàng ngũ quân
giải phóng. Ai ngờ, tất cả chỉ cắm đầu vào làm giàu, học đòi làm tư sản. Thằng
Ba còn có thời đi lính ngụy, chống phá cách mạng. Nếu giải phóng chậm hai năm
thì chúng mày hỏng hết.
Út cứ u u minh minh.
Trước những lời lẽ hùng hồn với phân nửa số từ xa lạ, dù cố gắng hết sức để
nghe, nó cũng không hiểu nổi những ý vàng cao thâm từ miệng anh Hai nó. Tuy
nhiên, riêng việc anh Hai bác lời khuyên của Bảy Thiện, xác định lòng tin với
Năm Thiêm, nó hiểu trọn. Nó không bao giờ quên lần nó với Tư Tiên bị cha nhốt,
bỏ đói trong nhà kho, Năm đã cấm Bảy không được tiếp tề đồ ăn. Nó cũng không
bao giờ quên khi cha bị thất thế, Năm quay ra bám Ba Bá, chính hắn đã chỉ chỗ
Tư lẩn trốn cho Ba Bá! Chính gã đi trói lôi Tư từ nhà dì Bảy về để Bá ép Tư làm
bé thầy Tám... gây nên vụ Tư tự sát...
Nó lặng lẽ ngắm chiếc nón
tai bèo mới tinh, bộ quần áo quân giải phóng màu xanh mới tinh, đôi giày da đen
mới tinh và bao súng cũng mới tinh của Hai Vương. Nỗi lo lắng mơ hồ bỗng bao
phủ lên niềm hi vọng. Nó đâu có bệnh mà Hai nói sẽ đưa nó đi bác sĩ? Chắc cũng
lại Năm Thiên xúc xiểm.
Chiếc xe jeep lao thẳng
vào trong sân, đậu ngay trước cửa ngôi nhà gỗ. Út bỡ ngỡ nhảy xuống. Nhà nó
đông đúc khác thường. Cha nó hơn hớn trong chiếc áo sơ mi trắng, quần sơ-vi-ốt
may từ đời nào đời nào, chỉ khi nhà có chuyện quan trọng mới giở ra mặc. Ba Bá
thì tươi tắn với bộ đồ ký giả màu ghi mới may. Năm Thiên mặc bộ đồ quân giải
phóng, nón tai bèo sụp tận trán, chân mang đôi dép râu, chạy lăng xăng. Sáu Là,
vợ Ba Bá cũng mặc áo dài, tấm áo màu cà phê sữa may từ hồi cưới, rộng thùng
thình bởi thân hình nàng giờ đây khô đét. Nét mặt rầu rĩ của Sáu đang phải cố
gắng tươi bởi đó là ý chồng. Đông đảo nhất là các bác, các chú, các dì dòng bên
nội từ Hóc Môn, Thủ Dầu Một kéo về tụ họp. Ai cũng xúm xít bên Hai Vương thăm
hỏi, tay bắt mặt mừng. Mọi con mắt đều hướng về Vương tự hào ngưỡng mộ. Thấy
không ai chú ý đến mình, Út mắt trước mắt sau lùi ngay xuống khu chuồng bò. Bốn
năm theo thầy Tám, nó chỉ về nhà vào những dịp cực chẳng đã, như ngày giỗ mẹ,
ngày Tết, ngoài ra, khi nào bò nhà có bệnh hoặc có nhu cầu bơm tinh, nó mới theo
thầy Tám về, rồi lại đi. Khoảng gần năm nay, do thời cuộc biến động, cả Tết nó
cũng không về. Bởi vậy, nó rất nhớ đàn bò. Bốn năm, kể từ khi nó đi, đàn bò từ
hơn chục con, đã lên tới hơn bốn chục. Chuồng trại xây gạch, lợp tôn, nền láng
xi măng, có đèn điện, có bơm nước. Nhà của Ba Bá cũng đúc lầu khang trang. Ba
Bá làm ăn giỏi hơn cha. Nhìn những con bò trong chuồng đều thuộc giống tốt, con
nào con nấy đẫy đà, lông mượt óng ả, những ánh mắt chứa đựng sự bình thản và
yên tâm, Út biết chúng luôn được chăm sóc đến nơi đến chốn. Nhưng hôm nay,
dường như chúng đang bị bỏ quên. Đó cũng là điều dễ hiểu thôi. Các chủ nhân
đang mải xoắn xít đón mừng người từ xa về. Út lẳng lặng đi xách nước đổ vào các
thùng cho bò uống rồi rải cám mới vào các máng.
- Từ nay, tao lại về
với tụi mày. - Nó nói với lũ bò: - Chúng mày còn nhớ hay quên mà mắt cứ trợn
lên như thế hả?
- Ê! Khùng... Làm gì
trong chuồng thế? Có qua nhà ngay không?
Út ngoảnh ra thấy Năm
Thiên đang đứng ngoài sân gắt gỏng.
- Xuống họp lẹ lên, cha
nội.
Út ngơ ngác bởi tiếng
“họp” lạ hoắc nhưng nó cũng lững thững đi ra.
- Thằng Bảy không nói gì
với mày à? - Năm nói lớn, cố ý cho nhiều người biết được cái oai mới và sự tận
tình của gã trong ngày đại sự: - Hôm nay họp cả họ để nghe anh Hai chỉ thị. Mày
có hiểu chỉ thị là gì không hả? Vô lẹ đi.
Út lầm lũi theo Năm. Bấy
giờ nó mới biết mọi người đang vào cả trong nhà gỗ. Một số không đủ chỗ, ngồi
đứng tràn ra lề thềm. Bước vào nhà, đập vào mắt Út, ở khoảng tường phía trên
bàn thờ là tấm băng-rôn đỏ chói dán dòng chữ in vàng chạy dài suốt ba gian nhà:
“KÍNH CHÀO ANH LỚN HAI VƯƠNG CHIẾN THẮNG TRỞ VỀ”. Út vừa ghé đít ngồi xuống bậu
cửa cạnh mấy đứa con dì Bảy, Hai Vương từ bên trong vội vẫy tay:
- Út, em vô đây ngồi. -
Vương đang ngồi ở ghế danh dự sau chiếc bàn phủ tấm vải đỏ đặt trên bình bông
cúc vạn thọ, nhổm hẳn lên tươi cười: - Vô, vô đây ngồi cạnh anh. Một nhân chứng
xã hội hùng hồn sao lại ngồi ngoài.
Thằng Năm lúc đầu bỏ mặc
Út ngồi đâu thì ngồi, thấy vậy liền xun xoe lách ra khoác lưng Út:
- Nào! Ưu tiên nhất
mày hôm nay đó, Khùng.
Út được Vương kéo thêm
ghế cho ngồi ngay cạnh.
Nó ngơ ngơ nhìn quanh.
Những người trong gia đình và họ hàng ngồi chật kín. Người có ghế ngồi ghế.
Không có ghế, thì ngồi giường, hoặc xệp luôn xuống nền xi măng. Khói thuốc lá
tuôn mờ mịt. Mùi khói thơm là lạ, Út chưa từng ngửi thấy bao giờ. Đứng ở đầu
phản, đối diện chỗ Hai Vương ngồi là Tư Em, trạc tuổi với Ba Bá, là anh con nhà
bác, đang nói tiếp điều dang dở:
- ... Niềm vinh hạnh nhất
cho họ nhà ta là có một người con ưu tú, một cán bộ cách mạng cao cấp, người
duy nhất trong họ hàng đứng trong hàng ngũ cách mạng.
- Thì mày cũng cách mạng
mà, Tư Em. - Ông già Ba Lanh hóm hỉnh, anh họ ông Hai Rỡ, cười hề hề nói leo: -
Mày “cách” cái “mạng” mày ở quán nhậu tối ngày.
- Thằng Năm Thiên không cách
mạng à? - Dì Mười Đây vừa nhai trầu tóm tém vừa nói giỡn: - Thằng Năm cách mạng
không súng à!
Mọi người cười ồ.
Tư Em liếc Hai Vương đọc
thái độ rồi cũng toét miệng cười:
Con cũng cách mạng nhưng
là cách mạng thông tin văn hóa quận, còn thằng Năm là cách mạng phó trưởng
khóm... hì hì... cách mạng ba mươi tháng tư... Tư Em đánh tảng lờ: Bà con cô
bác uống nước chè và hút thuốc đi. Đây đều là chè và thuốc cách mạng, anh Hai
mang từ miền Bắc về làm quà trong buổi họp mặt. Chè là chè Bắc Bắc Việt...
Hai Vương vội chữa:
- Bắc Thái.
Mọi người lại ồ lên cười.
Có người ho sặc sụa.
- Bộ mày Ngụy hay sao mà
nói Bắc Việt, Tư Em?
- Đù mẹ. Hôm qua hát
nhạc chiêu hồi, hôm nay hát nhạc cách mạng ngọt sớt.
Tư Em nhuế nhóa như không
nghe tiếng, giơ cao tay hét với điệu bộ phường tuồng:
- Bây giờ xin hân hạnh
giới thiệu với bà con cô bác, anh lớn Hai Vương có đôi lời giáo huấn với bà
con. Đây! Gã nhấn rõ và rời từng tiếng: Anh-lớn-Hai-Vương... ương.
Hai chậm rãi đứng dậy, cười
khủng khỉnh, nhìn khắp lượt mọi người, dụi điếu thuốc đang hút dở vào cạnh bàn.
Khi mọi người vừa im lặng, gã khoan thai rút khẩu K.54 từ bao súng đeo bên
hông, lẩy cò chĩa lên mái nhà bắn đoàng đoàng ba phát liền. Những viên ngói tàu
trên nóc vỡ tung tóe, mảnh vụn và bụi rơi đầy xuống đầu mọi người. Ánh nắng từ
bên ngoài tràn thành ba luồng sang qua ba lỗ vỡ. Cả người già, người trẻ, con
nít, người lớn đều tái xanh tái xám. Mấy cụ bậc bô lão chân tay run lẩy bẩy.
Hai Vương cười nhạt, đưa nòng súng lên miệng thổi tan khói rồi ung dung nhét
khẩu súng vào bao.
- Mấy viên ngói bể không
hề gì. - Gã nghiêm mặt: - Tôi bắn để xác định với mọi người, tôi, Hai Vương, đã
chiến thắng trở về. Tôi bắn để mấy người vừa chọc quê Năm Thiên và Tư Em hiểu
cách mạng không phải chuyện đùa. Cách mạng là chuyên chính. Thật đau lòng khi
suốt hai chục năm chiến tranh, hàng triệu bà con, hàng vạn gia đình ở miền Nam
quê hương đau thương, anh dũng đều có con em đi theo cách mạng, một lòng một dạ
đánh cho Mỹ cút, Ngụy nhào, không gia đình nào không có người đổ xương đổ máu
cho chiến thắng vĩ đại hôm nay, thì trong họ nhà mình trừ tôi đi từ hồi chống
Pháp, không có một ai theo cách mạng. Đã vậy, còn ngược lại, hầu hết các nhà
đều dính dáng đến chế độ cũ, không đi lính trực tiếp bắn giết đồng bào, cũng
làm việc trong chính quyền của bọn Thiệu Kỳ bán nước.
Ông Hai Rỡ sợ mất lòng
mọi người, vội rên lên:
- Hai ơi! Thời thế
cả thôi con...
Hai Vương nhìn xuống
người cha đang ngồi xệp dưới đất lẫn trong đám người già ngay trước bàn:
- Đời ba là một đời
sai lầm. Vì ba giấu tụi nhỏ về tôi, ba nói tôi đã chết... Nếu ba kể cho chúng
nó biết anh chúng là chiến sĩ cách mạng thì thằng Bá sẽ không đi lính Ngụy,
thằng Năm không phải chui lủi như con chuột trong cảnh trốn lính. Hai đứa và
thằng Bảy sẽ rủ nhau lên vùng giải phóng theo chân tôi, có phải bây giờ nhà ta
thành đại gia đình cách mạng nòi không?
Nghe nói tới đó, Út đưa
mắt lên bàn thờ và phát hiện sự đổi khác. Ngoài tấm hình má nó từ cũ, có thêm
tấm hình người đàn ông lạ, mặc áo lính, và hai khung kính lớn lồng bên trong
hai tấm bằng huân chương kháng chiến hạng hai và hạng ba, đều ghi tên anh Hai
nó: Huỳnh Bửu Vương.
- Nhưng thôi... - Thấy cử
tọa im thin thít, Hai Vương hạ giọng: - Chuyện cũ bỏ qua. Bây giờ, theo như Bác
Hồ nói, hòa bình thống nhất là lúc toàn dân tộc kề vai sát cánh dưới sự lãnh
đạo của Đảng, xây dựng đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn gấp mười ngày
xưa. Chủ nghĩa thực dân mới thâm độc của đế quốc Mỹ hai mươi năm qua đã cho cả
miền Nam nói chung và bà con ta nói riêng, nếm mùi phồn hoa giả dối. Chúng dựng
nên một nền kinh tế nô lệ quái gở, hễ thiếu một đồng đô-la của nước ngoài là
lập tức ngắc ngoải, kiệt quệ. Chúng cũng tạo dựng nên một xã hội mà người giàu
có, kẻ bóc lột, bọn tham qua ô lại, bọn lưu manh lừa đảo dân thì nứt đố đổ
vách, tiền xài như nước, còn người nghèo, người lương thiện, làm ăn chân chính
thì đời này qua đời khác mạt rệp trong những khu ổ chuột. Tội ác, buôn lậu,
tham nhũng hoành hành khắp nơi. Lưu manh, gái điếm, xì ke, ma túy, ăn xin lan
tràn khắp nông thôn, thành thị. Một chế độ xã hội như thế tan rã là đúng, thất
bại là đúng. Khi lòng dân chán ghét thì không cần đánh cũng tự tan rã. - Út
bỗng thất thần khi nghe từ phía chuồng bò tiếng rống nghẹt họng của một con bò
bị đánh hạ lẫn trong tiếng người hò reo, thúc giục xốn xáo. Nó bủn rủn hết tay
chân. Chỉ nghe vậy, nó đã hình dung đủ từng diễn biến tuần tự đến với con bò bị
giết. Gã đồ tể đưa đến một mớ cỏ ngon thả xuống đất. Con bò ngay thật ngước ánh
mắt hàm ơn, rồi cúi xuống ăn lộ ra cái ót đúng tầm giáng của búa tạ. Hấp. Gã đồ
tể giương cao búa, nín hơi vút mạnh. Một tiếng rống đau đớn không kịp bật ra
khỏi lòng ngực, con bò nặng nề khuỵu chân đổ vật, mắt lộn tròng trợn ngược, bốn
chân duỗi cứng giật giật, những biểu hiện cuối cùng nuối tiếc cuộc đời trộn
trong niềm hối hận của sự cả tin. Út nhấp nhổm định chuồn ra. Ngày còn xách đồ
theo thầy Tám chữa bệnh cho bò, đến đâu nó cũng nghe người ta nói: Cộng sản về
chỉ có nhà nước, hợp tác xã mới được nuôi bò, heo, vịt, gà... còn đâu của dân,
bao nhiêu cũng bị giết hết. Nó sôi sục nghĩ tới việc cứu bò. Phải chém chết
những đứa giết bò. Nó chưa kịp lẻn đi thì Năm Thiên rạng rỡ từ ngoài len vào,
đến bên Hai Vương ghé tai thì thào đầy vẻ quan trọng:
- Chắc khách của anh Hai
về bao nhiêu?
Hai Vương khó chịu vì cảm
hứng diễn thuyết bị đột ngột cắt ngang:
- Nhưng làm sao?
Năm hào hứng thẽ thọt:
- Thưa, nhà hàng họ nói
nếu chỉ hơn sáu chục người ở đây, cộng thêm hai chục khách nữa, đi một con bò
là đủ ạ.
Vương nhăn mặt:
- Ai nói cho chú con số
hai chục? Cả trên thành phố, trên quận và cơ quan tôi về tất cả ngoài năm chục.
Nhưng vấn đề không phải chỗ đó. - Vương cố ý to tiếng cho mọi người cùng nghe:
- Vấn đề quan trọng ở chỗ mừng chiến thắng là bữa tiệc một đời không có hai
lần, không lý do gì phải thắt lưng buộc bụng. Hơn nữa, khách của tôi, có người
Bắc, người Trung, tôi muốn cho các đồng chí ấy biết thế nào là lòng hiếu khách
và chịu chơi, đã làm là làm hết sức, đã chơi là chơi hết mình, của dân Nam Bộ.
Cứ hạ hai con, nếu cần ba con, thừa còn hơn thiếu. - Vương cúi xuống nhìn cha
và Ba Bá đang bì mặt, ù tai, tối mắt như chính họ vừa bị tuyên án từ hình: -
Cha với chú Ba chớ có tiếc. Đầu óc tư hữu là cội nguồn bảo thủ của người nông
dân, cứ cái gì của mình sở hữu là ôm khư khư, coi quý hơn cả sinh mệnh. Đó là
cản trở lớn nhất của người nông dân trên con đường tập thể hóa. Mừng chiến
thắng là vô giá. Vài ba con bò bị hi sinh không là gì. Đi vào cuộc cách mạng
cải tạo xã hội chủ nghĩa, chỉ trong năm nay, trễ lắm là sang năm, đàn bò này sẽ
vô hợp tác xã hoặc nhà nước hết. Ở miền Bắc, hồi cải cách ruộng đất, nhà có ba,
bốn con bò trở lên đã bị quy là địa chủ, tư sản, chỉ có nông trường nhà nước
mới nuôi bò hàng đàn. Nói thế để cha, chú Ba và bà con biết trong hai chục năm
qua những ai cắm đầu làm giàu là đi vào con đường cực kỳ sai lầm. - Gã quay
sang Năm Thiên: - Chú đi được rồi. Nhớ nói với nhà hàng, cách mạng là phải đúng
giờ. Làm sao đúng mười hai giờ, khách đến, mọi thứ phải xong hết.
Năm khúm núm dạ lớn, rút
ra cửa. Hai Vương lại trở về với cử tọa.
- Tôi xin nói tiếp với bà
con về chuyện xây dựng đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn.
Thằng Út ngồi lặng. Hóa
ra họ giết bò để ăn mừng chiến thắng, xum họp và đãi khách. Sự bồn chồn vẫn
nguyên. Dù với lý do gì, nó cũng không bao giờ đồng tình với việc giết bò. Nó
bỗng thương cả cha lẫn Ba Bá. Người nuôi bò sữa, với con bò không sinh lợi, thà
cho hoặc bán để người khác thịt chứ không bao giờ thịt trong nhà, càng không
bao giờ ăn thịt bò nhà. Út hiểu được nỗi đau của cha và Ba Bá, những người gắn
bó với từng con bò hơn cả mạng sống. Tuy nhiên, nó cũng tự an ủi: vụ tàn sát bò
tập thể mà nó suýt vùng lên chống lại đã không xảy ra. Tội nghiệp cho hai con
không may bị làm vật tế thần.
- Chủ nghĩa xã hội
là gì? - Hai Vương giơ cao nắm đấm, lớn tiếng quả quyết: - Chủ nghĩa xã hội là
bình đẳng, công bằng, không có người bóc lột, chèn ép người, không có người
nghèo khổ, không có bọn phạm pháp, bọn phản động, bọn lưu manh, không có đĩ
điếm, toàn dân đều no đủ, ăn ngon mặc đẹp, nhà cửa đàng hoàng, đâu đâu cũng có
lời ca tiếng hát, người già và con nít phải là những người sung sướng hạnh phúc
nhất. Nếu không quán triệt tinh thần đó, nếu cứ đi theo sự phồn hoa giả tạo của
chủ nghĩa tư bản thì ngay một gia đình cũng tan nát đảo lộn chứ không nói xã
hội. Không phải nói đâu xa. Ngay trong nhà tôi đây thôi. Khắp vùng này và các
vùng lân cận, ai nuôi bò mà không biết cha tôi: ông Hai Rỡ, và em tôi: Ba Bá,
là một trong vài gia đình giàu nhất, đứng đầu về đàn bò sữa. Nói đúng như quy
định chính sách, tức là nhà tư sản chính gốc.
Út thấy cha đang lắng
nghe chợt cúi gằm, còn Ba Bá nửa mếu nửa cười, nhăn nhúm khổ sở.
- Ấy vậy, trong nhà
thì sao? - Hai Vương đảo mắt khắp bà con. - Đây là thiên đường hay địa ngục?
Thưa, đây chính là hình ảnh thu nhỏ của xã hội thực dân tư bản mà thực chất,
như tôi đã nói bốn chữ: phồn-hoa-giả-tạo. Có thể cha tôi sẽ nói: Khi mày đi
cách mạng khu nhà này là ngôi nhà cũ nát, vách liếp mái lá, đèn dầu. Còn bây
giờ, nhà đúc, chuồng xây với hơn bốn chục bò sữa, giả ở chỗ nào? Tất cả đều
thật chứ? Tôi xin nói: Giả ở chỗ, con Tư, em gái tôi phải chết tức tưởi vì
chính đàn bò này. Giả ở chỗ, thằng Út đây bị bệnh tâm thần lẽ ra phải chạy chữa
lại tống nó đi ở đợ để khuất mắt, trong khi một con bò bệnh, kém sữa, giá nào
cũng tung tiền ra chữa cho khỏi. Giả tạo ở chỗ, thằng chủ nhà máy sữa nó cuốn
gói đi di tản thế là cả vùng hàng chục ngàn con bò, sữa vắt ra không biết bán
cho ai. Tôi nói như thế có đúng không? Đúng quá đi chứ. Quá trình làm giàu
không dựa trên nền tảng tư duy xã hội chủ nghĩa khoa học, mà theo mô hình đồng
đô-la Mỹ, không thể có những thành quả chân chính, vững bền. Tôi nói có đúng
không? - Hai Vương chỉ mặt Ba Bá: - Tôi hỏi thật, nếu không có những năm hỗn
quân hỗn quan bởi chiến tranh, chú có làm giàu nổi không? Không. Đúng không
nào?