Cái cười của thánh nhân - Chương 02 - Phần 1

Phần Hai: Những Yếu Tố Chính Của U Mặc

U Mặc Và Bất Ngờ

Yếu tố quan trọng nhất
của văn u mặc là sự bất ngờ, nghĩa là không thể dự liệu trước được.

Sứ mạng của u mặc không
phải là ru ngủ với những tập quán, thành kiến cố hữu của con người, mà cốt là
thức tỉnh con người bằng nghịch thuyết, một cách tự nhiên và đầy nhân ái.

Phàm việc gì trên đời,
có "cùng" mới có "biến", mà có "biến" mới có
"thông" như Dịch Kinh đã dạy. Và sự biến ấy là một sự đột
biến do sự tiệm biến lâu ngày... Nhờ vậy mới có chỗ "thông". Thông,
tức tiếng cười của ta đó.

Tâm tư con người bị trói
buộc trong vòng lễ giáo chật hẹp quá, luật pháp và cấm kỵ bủa giăng, phong tục,
tập quán và thàng kiến bao vây nghiêm nhặt quá, cho nên văn chương u mặc mang
lại sự cởi mở bất ngờ như ngựa thoát yên cương, mới phát ra được tiếng
cười chiến thắng: Cái cười "cởi mở" phá lao lung.

Định nghĩa về "cái
cười", Marcel Pagnol, trong thiên tiểu luận "Notes sur le Rire"
cũng nhận xét đại khái sau đây:

1. Cười là tiếng
ca đắc thắng. Nó là biểu hiện của một sự cao cả tạm thời, đột nhiên
bị khám phá ra được nơi người cười đối với người bị chế nhạo.

2. Cười có hai thứ, rất
kiên quan mật thiết với nhau như hai đối cực của quả địa cầu. Có cái
cười tích cực: Tôi cười vì tôi cao hơn anh, cao hơn tất cả thiên hạ hay cao hơn
tôi lúc trước. Lại cũng có cái cười "tiêu cực", cái cười gắt gỏng
chua cay, cái cười buồn bã, cười về chỗ thấp kém của kẻ khác, cái cười khinh
bạc ngạo nghễ đối với người thất thế, cái cười trả thù và hằn học: Tôi
cười, không phải vì tôi đắc thắng vinh quang hơn anh, mà tôi cười sự thất
bại tủi nhục của anh.

3. Giữa hai cái cười ấy,
còn có một thứ cười toàn diện gồm cả hai thứ cười tích cực và tiêu cực.

Để chứng minh,
Pagnol đưa ra một thí dụ điển hình về tiếng cười vang của dân lành
thành Paris bị quân Đức chiếm đóng, ngày Lecterc dẫn binh nhập thành.
Người dân Pháp cười lăng cười lóc, cười đến nước mắt ràn rụa, vì nước
Pháp đã được
giải phóng và được hòa địa vị của mình trước vạn quốc. Họ cười sự
chiến thắng của mình, mà cũng cười sự chiến bại của quân địch.

Định nghĩa của M. Pagnol,
trên đây kể ra cũng đã khám phá được một phần khá lớn cái mật
nhiệm của tiếng cười là giải phóng được tâm tư bị mặc cảm tự ty dồn
ép đến tận cùng.

Bergson cũng định
nghĩa tiếng cười cách khác: Hài hước là đem "hình thức máy móc mà
trồng lên sự sống" (du mécanique plaqué sur du vivant). Thuyết ấy khá hay.
Nó cũng không nghịch với Pagnol, mà còn chứng minh một cách rõ ràng hơn là
khác.

Thật vậy, những
cử động của thân thể con người mà gợi cười là khi nào nó không
cử động được một cách tự nhiên nữa, mà chỉ hoạt động một cách
máy móc, như những hình nộm bị giật dây. Cái khía cạnh đạo mạo và long
trọng của đời sống xã hội hằng ngày luôn luôn có ẩn bên trong một cái gì lố
bịch, hài hước. Một cuộc lễ trao giải thưởng, một phiên tòa án thường dễ trở
thành hài hước khi mà người ta đã quên phần chính mà chỉ chú trọng đến
những phần phụ thuộc, những hành động máy móc hình thức. Những sự méo mó
của nghề nghiệp thường làm cho ta tức cười, những trường hợp các nhân viên nha
quan thuế, sau khi lội xuống biển cứu xong những kẻ bị đắm tàu, quen miệng
hỏi: "Các anh không còn gì khai nữa chăng?"

Bất cứ một cá nhân nào
hành động như cái máy ở trước mặt ta, phải chăng tự họ đã tỏ ra thấp
kém hơn ta nhiều, còn ta đã trở thành một tâm hồn tự do không bị xã hội
biến thành một dụng cụ vô hồn.

Cũng nên nói qua về một
công dụng khác của văn chương trào lộng: "nói tục". Tục... mà thanh.
Cái đó mới khó.

Cái mà xã hội gọi là
phạm đến "thuần phong mỹ tục" phải chăng thực sự là những tội
lỗi mà ở trong xã hội tự nhiên không có gì gọi là tội lỗi cả! Đó là những thỏa
mãn, tự nhiên của con người, nếu bị cấm đoán sẽ bị dồn ép. Ở những xã hội
tự nhiên, các sự thỏa mãn nhu cầu tự nhiên không thấy gì đáng cười cả,
trái lại, ở những xã hội văn minh giả tạo, thì đó là những câu chuyện buồn
cười! Nhà văn Lâm Ngữ Đường cho rằng: "Kẻ giỏi về hoạt kê, là kẻ nói
lên được những cái hợp tình hợp lý ngoài dự liệu của mọi người. Và nó sẽ
là những lời của kẻ khác không dám nói (...). Do đó, hoạt kê đổi sang
"nói tục", vì "nói tục" cũng có tác dụng buôn thả cởi mở sự
bị ức chế trong tâm tư. Và trong hoàn cảnh tương đương như vậy, lời
"nói tục" cũng hợp với tinh thần khang kiện (...). Bởi vậy ta thường
thấy nhiều ông bà thời thường hết sực đoan trang đạo mạo, khi nóng
giận bực tức việc chi, hay "văng tục" khinh khủng!

Ngày xưa, bên Trung Hoa,
Thuần Vu Khôn đáp lời của Tề Uy Vương: "Hạ thần uống một đấu
cũng say, mà uống một thạch cũng say!"

Uy Vương hỏi:

- Uống một đấu
cũng đã say rồi, thì làm sao uống được một thạch?

Thuần Vu Khôn đáp:

- Khi hầu cận bên hoàng
thượng, thì chỉ uống một hai đấu là đã say nhừ rồi! Nhưng, nếu khi ngồi
lộn xộn với đám trai gái, nắm lấy tay không phạt, liếc mắt không cấm,
trước rời hoa tai sau lỏng cài trâm... thì có thể uống tới tám đấu mới
chịu say. Cũng như khi trời chiều rượu cạn, cùng tôn kính nhau mà ngồi sát bên
nhau, trai gái đồng tịch, giày dép lộn xộn ngổn ngang, trên nhà nến tắt,
chủ nhân giữ Khôn lại và màn mở tung ra, nghe hơi hương nồng thắm, trong lúc ấy
Khôn quá vui thích, có thể uống cả một thạch!

Trương Vương vẽ mày cho
vợ, bị nhà vua cật vấn, trả lời: "Trong khoảng buồng the, việc vợ chồng há
chỉ có vẽ chân mày mà thôi đâu!" Đó là hoạt kê, khiến người ta cười,
nhất là khi có sự cấm kỵ không nên nghe, mà lại nói ra được một câu hợp tình
hợp lý không chối cãi.

Tương truyền có một
người đến hỏi một đạo sĩ về thuật trường sinh bất lão. Đạo sĩ bảo
phải tiết dục, ăn sương nằm gió, xa lánh đàn bà, cấm ăn cao lương mỹ vị...
thì mới có thể trường sinh.

Người ấy nói:

- Như thế thọ đến
nghìn năm cũng chả có ích gì! Thà chết yểu còn hơn!

Cái cười
như đã định trước đây, là do sự khác biệt về địa vị, về giai cấp
sang hèn trong xã hội.

Những rủi ro bất ngờ xảy
ra cho những kẻ có một địa vị cao cả, tôn nghiêm dễ làm cho người
dân đen cười lắm. Người khùng, không ai cười, mà một vị vua chúa, cao sang
tôn quý lại rủi ro khùng khịu, nói lắp. Nói ngọng... sẽ làm cho thiên hạ cười
vang.

Cũng như một cái lỗi
chính tả, đối với thí sinh tiểu học không làm gì cho người ta
cười được, vì cười nó đâu có chứng tỏ sự tài giỏi của ta hơn
nó đâu. Trái lại, nếu là một ông giáo sư mà viết sai chính tả, sẽ làm cho
học trò cười lên một cách sung sướng.

Chế giễu bọn người nhiều
may mắn, nhiều uy quyền, nhiều tài hoa hơn thiên hạ là giúp cho đám người
vô thiếu may mắn, thiếu uy quyền, thiếu tài hoa... cảm thấy trong một thời gian
ngắn, cao hơn những hạng người trong thực tại cao sang tài giỏi hơn họ kia. Làm
cho họ cười là giúp cho họ một cơ hội nhỏ bé và tạm thời lấy lại chút ít lòng
tự tinđã mất, trước những thực tế phũ phàng.

Bởi vậy, những vở hài
kịch, nhiều ít, đối với số đông khán giả, là một liều thuốc bổ, nâng đỡ
tinh thần trong cuộc sống vất vả hàng ngày. Đối với những bệnh nhân vì nản chí,
chán chường, mệt mỏi... cười quả là một liều thuốc bổ. Marcel Pagnol bảo rằng:
Cười, làm tăng hồng huyết cầu, vì nó làm cho lá lách ta nở lớn hơn. Ông lại còn
cho rằng: Những kẻ không còn cười nữa vì những lý do bên ngoài, lần lần sẽ mất
sinh lực, mất cả sự nhanh nhẹn và mất cả lòng nhân ái.

Chính vì những lời lẽ nói
trên mà ta thấy phần đông người dân rất thích đọc những bài văn chửi
người, những bài thơ ngang, trào lộng châm biếm. Người ta không bao giờ
cười đối với kẻ mà ta khi, nhưng sẽ cười những chở sơ hở của những kẻ hơn
ta về nhiều phương diện. Người tađâu có cười kẻ si tình tầm thường trong dân
gian, mà cười lăn ra khi gặp phải một ông sư cụ mà lại tương tư:

"Sư đang tụng
niệm nam mô!

Thấy cô xách giỏ mò cua
bên chùa.

Lòng sư luống những mơ
hồ,

Bỏ cả kinh kệ, tìm cô hỏi
chào

Ai ngờ
cô đi đường nào,

Tay cầm tràng hạt ra vào
ngẩn ngơ!

Ba cô đội gạo lên
chùa,

Một cô yếm thắm bỏ chùa
cho sư.

Cô về, sư ốm tương tư,

Ốm lăn ốm lóc cho sư
trọc đầu!

Ai làm cho dạ sư sầu,

Cho ruột sư héo như
bầu đứt dây!"

Cái cười trên đây,
là cười sự sút kém của kẻ khác.

Bên La Mã ngày xưa, trong
những ngày lễ chiến thắng, người ta cho phép các binh sĩ được quyền chế
nhạo những vị anh hùng đã lập được chiến công oanh liệt... là để
hạ bớt lòng tự kiêu, tự đắc rất có hại cho những kẻ thắng trận.

Những điều nói
trên đây, có thể làm sáng tỏ phần nào nguồn gốc và tính chất của tiếng
cười nói chung, nhưng đều là những loại hoạt kê uẩn ức theo cơ trí, thú
trào lộng châm biếm của những tâm hồn còn phẫn thế.

Một bài văn trào lộng u
mặc không phải như vậy. U mặc là châm biếm, nhưng châm biếm một cách tự nhiên
vàđượm màu ưu ái.

U Mặc Và Tự
Nhiên

Đặc điểm thứ hai của
văn u mặc là tự nhiên. Đọc văn u mặc thượng thừa, ta không cảm thấy làm văn,
không thấy sựđẽo gọt. Đơn giản và tự nhiên là chỗ cao tột của nghệ thuật và u
mặc.

U mặc là khách quan mà
nhìn xem sự thế, còn cơ kính là chủ quan, bóp tròn bẻ méo việc đời để
tha hồ vu khống xuyên tạc. U mặc thì hư không, có mùi lạt lẽo, còn phúng thích
thì chua cay và bén nhọn.

Viết văn u mặc phải
có được một tấm lòng thản nhiên vô tư, nhìn xem thế sự có chỗ vui thích tự
nhiên rồi dùng ngọn bút khinh khoái mà mô tả không thấy có gì ngượng nghịu, trở
ngại, không gò ép, không lo sợ, không cầu được có kẻ tán thành cũng không
sợ có người chỉ trích.

Du khách viếng chùa Hoàng
Bích bên Nhật đều không ngớt trầm trồ bức hoành viết ba chữ "Thắng
Nghĩa Đế" bằng đại tự, khắc ở cổng chùa.

Tương truyền ba chữ ấy do
hòa thượng Kosen viết, cách đây lối hai trăm năm. Hòa thượng bắt đầu
viết thử trên giấy rời. Bên cạnh, có một chú tiểu ngồi lo mài mực vừa chê khen.
Viết lần đầu, chú tiểu chê xấu. Lần sau chú lại cũng chê xấu. Hòa thượng
kiên nhẫn thử đến tám mươi tờ giấy. Chú tiểu cũng kiên nhẫn chê đến
tám mươi tám lần.

Chú tiểu có việc ra ngoài

Hòa thượng cảm thấy nhẹ
nhàng vì đã thoát khỏi cặp mắt quá quắt của chú tiểu, bèn múa bút, viết
một hơi... quên mình, quên chú tiểu, quên cả chung quanh.

Viết vừa xong, thì chú
tiểu trở vào.

Chú nhìn đứng sửng
một hồi, khen:

- Thật là tuyệt bút!

Tóm lại, văn u mặc, tuy
có nhiều hình thức cao thấp khác nhau, nhưng tựu trung đều có ngọn bút nhẹ nhàng, đều lấy tự
nhiên là chủ yếu.

Cái u mặc sở dĩ khác với
văn chương du hí của Trung Hoa, là không hoang đường, vừa trang trọng vừa
hài hòa phát xuất tự chỗ tự nhiên để bàn đến nhân tâm thế sự và
tuyệt đối không bao giờ thấy có giọng hề.

Đọc văn u mặc không bao
giờ thấy sự cố cưỡng gò ép tử tư tưởng đến văn từ. Trên con đường
nghị luận ít có sự ràng buộc, cho nên vui buồn, thương ghét đều phát xuất
một cách chân tình. Văn u mắc khác văn trào lộng châm biến ở chỗ kín đáo
của nó, thường thì chỉ nhận ở khóe mắt hơn nụ cười cửa miệng.

U mặc có nhiều thứ, có
nhiều nghĩa rộng hẹp khác nhau. Theo Tây phương thường lại có ý nghĩa bao quát
tất cả những gì khiến cho người ta cười, trong đó có những cái cười thô
tục, bỉ lậu... Theo nghĩa hẹp, thì u mặc khác xa châm biếm cười đùa. Trong
cái cười, có nhiều cách, như cười chua, cười đắng, cười nhạt, cười điên,
cười nụ, cười vang... Lại cũng có cái cười lập đức... Nhưng trong tất cả
mọi thứ cười, cái cười u mặc là một thứ cười hồn nhiên phát tự một trí huệ
tuyệt vời, một tâm hồn siêu thoát, nặng về tình cảm nhẹ nhàng.

Tây phương bàn về u mặc
có Aristote, Platon, Kant, nhưng đại để giống với Aristote, cho rằng:
Cười, là lâm vào tình trạng khẩn trương đang đợi sự biến đổi
thình lình. Tức là chỗ mà Dịch Kinh bảo: "Cùng tắc biến".

Freud, có đưa ra một
dẫn chứng rất lý thú: "Một hôm có người bạn nghèo, đến người bạn giàu
vay một số tiền. Hôm sau, anh nhà giàu gặp người bạn mượn tiền đang ngồi
tại quán ăn trước một món ăn rất sang. Anh bạn giàu đến trách:

- Anh vừa mượn tiền của
tôi, lại rồi ra đây ăn uống sang thế à! Vậy, thì anh mượn
tiền để đi ăn ngon sao?

Người bạn nghèo đáp:

- Tôi không hiểu anh muốn
nói gì cả. Tôi không tiền, nên không thể nào thưởng thức được món ăn ngon
này. Vậy khi có tiền, lại cũng không được ăn món ngon này, vậy xin hỏi
anh, đến chừng nào tôi mới được ăn món ngon này?

Anh nhà giàu cười, vỗ vai
anh bạn nghèo rồi bỏ đi.

Trong khi anh bạn giàu
hỏi, tình trạng thật là khẩn trương. Đến khi nghe câu trả lời của người bạn
nghèo, thì tình trạng căng thẳng trong tâm tư bèn được giải tỏa, nhẹ nhàng
thư thái... Cười, có cái tác dụng giải phóng thần kinh là vậy. "Bí ẩn tắc
thông" là thế, như Dịch Kinh đã nói.

U mặc mà càng được
bao trùm rộng rãi ra thế nhân bao nhiêu càng lại được nhiều kẻ đồng
tình bấy nhiêu, bởi vì trong đám người nghe không ai thấy là chính cá nhân
mình bị chỉ trích. Cho nên u mặc mà cao là khéo nói những chuyện bông lông,
không nhằm vào một cá nhân hay mộtđoàn thể nào cả. Lấy việc xưa mà nói việc
nay, cũng như lấy mình làm mục tiêu chế nhạo thì không ai nhột nhạt khó chịu và
oán ghét. Vì vậy mà thường văn chương u mặc hay có tính cách ngụ ngôn và tự trào

"Sô Kỵ, người nước
Tề, tướng cao, mặt mũi khôi ngô. Một buổi sáng soi gương, hỏi vợ:

- Ta đẹp hay Từ
công đẹp?

Vợ đáp:

- Tướng công đẹp, Từ
công sao sánh được?

Kỵ không tin, hỏi lại
người thiếp, thiếp nói:

- Từ công sánh gì nổi
Tướng công!

Có khách đến, Kỵ
cũng hỏi thế. Khách đáp:

- Từ công đẹp sao
bằng ngài!

Hôm sau Từ công đến
chơi. Kỵ nhìn kĩ,
biết mình không bằng. Lại soi gương càng thấy mình kém xa.

Ngẫm nghĩ rồi vào triều,
tâu với Tề vương:

- Thần vốn biết dung mạo
không bằng Từ công, vậy mà vợ thần vì yêu, thiếp thần vì sợ, khách thần thì
muốn cầu cạnh, đều nói thần đẹp hơn. Nay nước Tề, đất vuông ngàn
dặm, thành quách trăm hai, trong cung không ai là không yêu đại vương, bốn
phương không ai là không mong chờ đại vương. Như vậy, đủ thấy người
ta đã che mắt đại vương rất nhiều rồi vậy!"

Chỗ u mặc của Sô Kỵ, là
biết lấy các việc mình bị "che mắt" hoặc tự tạo ra để cảnh tỉnh
sự bị "che mắt" của người khác, không riêng gì là của một ông vua, mà
tất cả mọi người.

U Mặc Và Tình
Thương

Tiếng cười u mặc vì vậy,
có thêm một đặc điểm thứ ba là tình thương.

Tiếng cười u mặc là tiếng
cười ôn nhu hòa hoãn, phát tự tâm linh siêu thoát, vượt lên xa những cái nhỏ
nhen cố chấp của người đời.

Nếu châm biếm hài hước mà
có tính cách cá nhân sẽ không còn phải là tinh thần u mặc nữa. Bởi vậy, những
câu châm biếm có tính cách chua cay ác độc, hằn hộc nguyền rủa không phải
là u mặc.

Tình cảm của u mặc là
siêu thoát, là đạt thấu nhân tìnhđạo lý, người đọc văn không thể
không vui mà nhận nó, như trường hợp Tề vương trên đây. Nguyền rủa, trịch
thượng thì lời nói nặng nề, thô lỗ, kẻ bàng quan dù có cho là lẽ phải cũng rất
khó mà đồng tình. Cười cái điên của một cá nhân nào. Jean Paul
Richter nói rất chí lý: "Dưới con mắt của nhà văn u mặc, không có
cái điên nào cho ai cả, mà chỉ có lũ con người điên, và cả một thế
giới điên loạn mà thôi."

U mặc và phóng thích có
nhiều chỗ gần nhau, nhưng không nên xem phúng thích là mục đích của u mặc.
Phúng thích hay đi đến chỗ chua cay. Phải bỏ cái vẻ chua cay mà
đạt đến một tâm cảnh trống không và hờ hững. Lại còn phải thêm một
vài điểm từ bi nhà Phật là khác.

Trào lộng u mặc phải có
vẻ ôn hòa thuần hậu, có tính cách thương xót cho số phận của con người. Đùa
cợt, nhưng không đùa cợt theo cách hằn thù định làm nhục đối
phương, mà đùa cợt một cách âu yếm như bậc cha anh đùa những cái lầm
khả ái của con em mình. U mặc là trào lộng với thâm ý làm cho giác ngộ. Công
dụng của nó là lập đức, bởi vậy, trong tiếng cười có pha giọt lệ, hay nói
cách khác, u mặc là "tương tiếu nhất thinh song lê lạc" là "những
giọt lệ trong con mắt đang cười' (des larmes dans un oeil quy rít). Bên
Espana, người ta khuyên nên đọc sách trào lộng của Xervantès ba lần: Lần
thứ nhất để cười, lần thứ hai để suy nghĩ, lần thứ ba để khóc.
Thiết nghĩ, đọc bất cứ văn trào lộng thượng thừa nào cũng vậy, đều
cũng phải như thế mới được.

U Mặc Và Nghịch
Thuyết

Điểm then chốt của văn u
mặc là nghịch luận, nghĩa là nói nghịch mới gây được sự bất ngờ,
gây được lòng phẩn uất và bắt người ta phải đặc lại vấn đề. Là
vì không có câu nói nghịch nào mà không có phần phải của nó, mặc dù nó không
vừa lòng đẹp ý ta. Bất cứ một thứ chân lý nào cũngđều có hai mặt, cuộc
biến động nào cũng có hai chiều: Thái cực nào cũng gồm cả hai nghi (lưỡng
nghi), nói theo Kinh Dịch. Lão Tử bảo rất đúng: chánh ngôn nhược phản. Lời
nói chính giống như là những lời nói nghịch: Nghịch để mà bỗ túc, chứ
không phải để phủ nhận hoàn toàn đối phương. Bởi vậy, trong bất cứ
chế độ tự do nào, phần đối lập là phần quan trọng nhất, vì thiếu nó,
không có tự do. Trên đời này không bao giờ có chân lý tuyệt đối, cũng
như không có sai lầm nào là sai lầm tuyệt đối, cho nên có thể nói, không
có sai lầm, chỉ có những chân lý phiến diện mà thôi.

Nhà văn trào lộng nào mà
hằn học, thù oán đối phươg, nhục mạ mạt sát không tiếc lời, chưa phải là nhà
văn trào lộng u mặc. Họ thường muốn tỏ ra rất đạo đức và đóng
vai trò "cảnh sát kiểm tục", "thiết diện vô tư"... Nhà văn
trào lộng u mặc có khác, họ có cái giọng "khinh thế ngạo vật",
chống đối đạo đức, thứ đạo đức giả trên đây.
Đạo đức mà khắc nghiệt thường giúp cho tội lỗi càng thêm bành trướng, vì
"ăn vụng" bao giờ cũng ngon hơn là bị bắt buộc phải ăn mà không dám
cãi. Đúng như câu nói này của người xưa "tương dục phế chi, tất cố hưng
chi!" (hòng muốn phê đó, lại làm cho đó hưng lên). Lạ gì cái thú
"ăn trái cấm", thủy tổ loài người mà còn phải sa vào tội lỗi đầu
tiên ấy là "ăn vụng"! Pascal nói rất đúng: Người đâu phải
là một ông thánh cũng đâu phải là một con thú... Và khốn nạn thay, kẻ chỉ
muốn làm ông thánh, lại biến thành con thú.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3