Con Đường Mây Trắng - Chương 4 - Phần 1
PHẦN THỨ TƯ
MIỀN NAM & TRUNG TÂY TẠNG
GIAI ĐOẠN MỚI: ADSCHO RIMPOTSCHÉ
Kể từ chuyến đi lên vùng cao nguyên miền tây Tây
Tạng và Ladakh mà từ đó tôi mang về lại toàn thể hình ảnh của tám mươi bốn vị
Thành tựu giả (Siddha) và một số lớn bản sao các bích họa trong các đền thờ thì
tôi quan tâm về đạo lộ huyền bí của các vị tất địa, về giáo pháp và cuộc đời
của họ, có phần lịch sử, có phần huyền hoặc cũng như hình tượng của họ, mối
quan tâm đó ngày càng lớn. Với mối quan tâm đó, tôi quyết định đi thăm đền của
vị Rintschen Sangpo tại vương quốc Guge ngày nay đã hoang phế, vì tôi hy vọng
sẽ tìm thấy những gì còn sót lại của truyền thống tâm linh cũ nhất và cũng hoàn
hảo nhất của nghệ thuật tôn giáo Tây Tạng.
Kể từ ngày xuất hiện linh ảnh trong đến núi đá
trên đường đi Tschang-Thang đến nay thì sáu năm đã trôi qua - đó là một biến cố
đã mở mắt cho tôi về ý nghĩa phi thường của những linh ảnh đầy sáng tạo và vai
trò của nghệ thuật trong tôn giáo, nó vượt lên giá trị thiện mỹ thông thường,
nó ẩn chứa cái chìa khóa mở ra cho chúng ta thấy các man-đa-la, mở ra các linh
ảnh và cả toàn bộ phép tu thiền định cũng như mỗi song hành giữa thế giới nội
tại của con người với vũ trụ xung quanh.
Tôi dùng sáu năm đó để nghiên cứu đời sống tâm
linh và kinh sách Tây Tạng và để sưu tầm tất cả thông tin về hoạt động của
Rintscheen Sangpo cũng như vài trò của ông trong việc thiết lập và củng cố Phật
giáo tại miền tây Tây Tạng bị điêu tàn sau thời Langdarma. Thế nhưng lúc chuẩn
bị chuyến viếng thăm lại tây Tây Tạng thì chiến tránh thế giới lần thứ hai nổ
ra và hủy tất cả hy vọng thực hiện kế hoạch của tôi.
Tsaparang trở nên một cái đích hầu như không thể
đạt tới đối với tôi. Trong thời gian đó thì tôi tìm được nơi Li Gotami - người
bạn đồng hành trong kế hoạch của mình, người đàn bà quyết định cùng chia sẻ
công việc và cuộc đời với tôi, trên cơ sở mục đích tâm linh và nghệ thuật chung
cũng như quan tâm đặc biệt của Li về nghệ thuật Tây Tạng. Chúng tôi làm quen
với Rabindranath Tagore trong viện đại học quốc tế Santinikentan tại Bengal, nơi tôi làm giảng
viên cho lớp cao học và cũng là nơi Li Gotami trải qua mười hai năm nghiên cứu
nghệ thuật Ấn Độ (lúc đầu với Nandal Bose và về sau với Rabindranath Tagore) và
học được nghệ thuật làm bích họa cũng như tranh thanka của nghệ nhân Tây Tạng.
Tôi đưa Li vào các chi tiết của hình tượng cũng như thế giới quan Tây Tạng và
cuối cùng Li cùng tôi thọ giới phái Kargyutpa, trở thành vợ tôi và là bạn đồng
tu. Hình như Tomo Géché Rimpotsché đã biết trước điều này vì ông đã ban phép
cho Li trong lần gặp cuối cùng tại Sarnath và khi nghe Li hỏi liệu có thành
công lớn nếu dâng hiến đời cho phương pháp.
Lễ cưới tôn giáo của chúng tôi được chủ trì bởi
Adscho Rimpotsché, ông là tu viện trưởng của Tsé-Tscholing. Một vị lạt ma thân
thiết lâu năm với tôi khuyên tôi nên cầu thỉnh đến Adscho, lúc đó Adscho đã tám
mươi bốn tuổi và là một đại sư trong phép tu thiền định. Niềm tôn kính ông ở
miền nam Tây Tạng cũng như tại Bhutan và Sikkim được thể hiện bằng một ngôi đền
hai tầng tuyệt đẹp xây nên do sự cúng dường của tín đồ. Mặc dù trong tay ông là
những số tiền khổng lồ cho tòa nhà, tranh tượng cũng như mua thỉnh nhiều kinh
sách và trang thanka quí giá, ông không có tài sản cá nhân nào cả và sống hết
sức đạm bạc trong một căn nhà gỗ nhỏ dưới chân đền.
Cũng như các vị lạt ma tại Latchen và các vị tất
địa trước mình, ông là người có gia đình. Vợ ông là một người Damema đích thực,
một con người vị tha, như vợ của Marpa. Bà là mẹ của tất cả những ai nằm trong
vòng quen biết của bà và của chồng bà, nhất là đệ tử của ông. Adscho Rimpotsché
là hiện thân của vị tất địa Dombhi-Beruka vào thế kỷ thứ tám sau Công nguyên,
người đã từ bỏ ngôi vua để sống cuộc đời thiền định trong sự cô tịch của rừng
núi, nơi mà sau nhiều năm tinh tấn giác ngộ và trở thành một vị tất địa. Sau
khi chứng ngộ, ông trở lại với quần thần và trở thành vị nhà lãnh đạo tâm linh,
là tấm gương sinh động của sự chứng thực của con người và phụng sự cho chúng
sinh. Được nhận phước lành của một người như thế va được ông khai thị cho các
phép thiền định và ấn quán đặc biệt, đối với chúng tôi là một biến cố, thêm sức
mạnh cho đời sống tâm linh của mình.
Sau Tomo Géché Rimpotsché, không có sự tiếp nối
nào hoàn hảo hơn, để có thể hướng dẫn và cảm khái chúng tôi. Thậm chí tôi thấy
rằng, tất cả những lần quán đỉnh vào các phép thiền định và giáo pháp của Kim
cương thừa mà chúng tôi nhận được trong hai năm sau đó từ những lần đi hành
hương tại miền nam, trung và tây Tây Tạng, chúng không những chỉ có liên hệ với
nhau, mà nằm trong một man-da-la hoàn hảo. Nằm trong một “vòng tròn huyền bí”,
trong đó chứa đựng tất cả khía cạnh quan trọng của đời sống tâm linh Tây Tạng.
Điều kỳ lạ là trong thời gian ở Yiga Tscholing
tôi được một người bạn gốc Sikkim tặng cho một bức tranh thanka vẽ một đồ hình
man-đa-la: Phật Thích-Ca Mâu-Ni ở giữa, phía trên là A-Di-Đà, hiện thân của Vô
lượng quang, phía dưới là Liên Hoa Sinh, người giảng Tử Thư (Bardo Thodol) và
giáo pháp huyền bí “đạo lộ trực tiếp”. Hai góc phía trên một bên là Văn Thù,
hiện thân của trí huệ siêu việt và góc kia là thần Tara, nữ thần giải thoát,
hiện thân của tình thương từ mẫu, mặt bổ túc của trí huệ siêu việt của Văn Thù.
Hai góc kia, một bên là Quán Thế Âm, hiện thân của lòng từ bi và tâm sẵn sàng
cứu độ, còn góc kia là Kim cương thủ, người giữ Kim cương chử của sức mạnh tâm
linh và của giáo lý bí truyền.
Ý nghĩa sâu kín của bức thanka được trình bày qua
vị trí của các hình. Nó là then chốt mở cánh cửa của đạo lộ thiền định mà
man-đa-la chứa đựng. Không có nó thì các hình ảnh chỉ là những biểu tượng chết
cứng chứ không phải là bảng chỉ đường dẫn lối cho hoạt động tâm linh trên đường
giác ngộ.
A-Di-Đà, Thích-Ca Mâu-Ni và Liên Hoa Sinh đại
diện cho sự giáng hiện của nguyên lý tâm linh xuất hiện từ pháp thân thường
trụ, biến thành dạng xuất hiện nhất thời của Ứng thân, trong dạng của Đức Phật
lịch sử và người đại diện vĩ đại của Ngài, người đưa đạo Phật đến Tây Tạng vào
thế kỷ thứ tám.
Trục trung tâm của sự giáng hiện tâm linh và thứ
tự thời gian nằm thẳng đứng trên bình diện phi thời gian (vì luôn luôn hiện
diện) của bình diện tâm linh. Từ nơi đây pháp thân tùy theo tính chất của Phật
quả, tách ra: tương tự như một lăng kính trong đó một tia sáng tách ra nhiều
màu khác nhau. Nơi đây là chỗ sinh ra các hình ảnh uyên nguyên của phép thiền
định: nó trình bày những thân khác nhau tùy theo tính chất của kẻ giác ngộ. Báo
thân chỉ là thân hữu sắc nhưng phi thời gian và phi vật chất, đó là thân nằm
giữa pháp thân, vô sắc, phi thời gian và ứng thân, đó là thân vừa thân vật chất
(thân người) vừa phi vật chất (một dạng xuất hiện thấy được của thiên nhân
giáng thế).
Trong man-đa-la này của chúng ta thì các báo thân
chính là bốn góc của hình vuông (hay bốn cánh của một hoa sen), mà đường chéo
của nó cắt nhau tại chỗ Thích-Ca Mâu-Ni, điều đó nói lên các tính chất của
những báo thân đó hội tụ trong Ngài.
Nếu hai đường chéo của hình vuông nối hai hình
lại với nhau trong một nguyên lý như nhau, thì những đường ngang và dọc của
hình vuông báo thân nối lại những hình mà chúng có tính chất đối lẫn nhau; vì
theo quan điểm Phật giáo thì sự thăng bằng tâm linh là điều kiện tiên quyết của
giác ngộ. Nếu chỉ thuần trí huệ hay thuần từ bi cũng không dẫn đến giải thoát.
Trí huệ thiếu từ bi sẽ dẫn đến sự khô cứng, từ bi thiếu trí huệ sẽ dẫn đến sự
tan rã. Chỉ nơi mà tim và óc hợp lại thì mới có giải thoát đích thực. Trong
thuật ngữ Phật giáo thì Bát Nhã (prana, trí huệ, tri kiến) và phương tiện (upaya),
phương cách để tỏ lộ những gì tri kiến như lòng từ, lòng bi, hai mặt đó phải
thăng bằng với nhau. Nói cách khác: sự thống nhất của nguyên lý nhận thức và
nguyên lý cảm xúc, giữa Logos và Ethos, giữa tư duy và hành động, giữa tính
chất lý trí và cảm xúc, giữa hiểu biết và hành động… là cần thiết để chứng thực
cái cao nhất mà con người đủ sức đạt tới. Thế nên các đường nằm ngang phía trên
thể hiện như sau;
- (trái) Văn Thù, nguyên lý nhận
thức với kinh trí huệ siêu việt ở tay trái (thụ động), với lưỡi kiếm của trí
huệ phân biệt ở tay phải (chủ động).
- (phải) Tara, lòng cứu độ từ
mẫu, người giải thoát hiểm nguy, nguyên lý cảm xúc.
Đường ngang phía dưới;
- (trái) Quán Thế Âm, thể hiện
lòng từ bi, nguyên lý dương - chủ động cảm xúc; và ngược là với Quán Thế Âm là
- (phải) Kim cương thủ, khía
cạnh mạnh của Bát Nhã.
Sự đối cực tương tự được nhắc lại trong đường
thẳng đứng của hình vuông báo thân:
- (trái) phía trên là Văn Thù,
là khía cạnh trí huệ và Quán Thế Âm (dưới) là khía cạnh từ bi của Phật tính.
- (phải) phía trên là Tara, là
khía cạnh cảm xúc và Kim cương thủ (dưới) là khía cạnh sức mạnh của nguyên lý
nhận thức.
Tất cả những tính chất của hình vuông báo thân
đều được biểu hiện trong dạng ứng thân của Phật Thích-Ca Mâu-Ni và cũng trong
người kế vị là Liên Hoa Sinh. Thế nhưng nếu trong Thích-Ca Mâu-Ni, dạng trí huệ
của Văn Thù và khía cạnh bổ sung là lòng từ bi mẫu tử (như trong kinh Từ Bi thể
hiện) được nhấn mạnh thì với Liên Hoa Sinh, khí cạnh uy lực của nhận thức mật
điển và lòng từ bi cứu độ mọi loài của Quán Thế Âm Bồ-tát là chủ yếu. Để bày tỏ
mối liên hệ này, Văn Thù và Tara được để trên cao tả hữu của Thích-Ca Mâu-Ni,
trong lúc Quán Thế Âm và Kim cương thủ nằm bên tả hữu của Liên Hoa Sinh.
Cũng như vị Phật Thích-Ca Mâu-Ni, người được xem
là bổn sư của thời đại chúng ta, nằm trong trung tâm của thanka thì vị đạo sư
luôn luôn nằm trong tim của người trò, vì giữa cá vị thầy đích thực không bao
giờ có sự cạnh tranh - cũng như không bao giờ có sự cạnh tranh giữa các khía
cạnh của sự thực. Mỗi vị thầy chỉ có thể đáp ứng những gì bản thân ông đã chứng
thực, điều mà ông đã hiện thân nơi chính con người mình. Không có vị thầy riêng
lẻ nào có thể tận dụng hết mọi khía cạnh của thực tại; và dù điều này xảy ra
thì ông vẫn có con đường riêng của mình đã đi đến đích cao nhất. Thế nên, không
những chỉ tùy thuộc nơi sự thành tựu của thầy mà còn tùy nơi cá tính và khả
năng của trò, qua đó mà biết phương pháp nào là hiệu nghiệm nhất cho trò. Vì
rằng mục đích cuối cùng của mọi phương pháp chỉ là một nên thực ra không có mâu
thuẫn hay bất hòa giữa chúng với nhau. Thật là bất hạnh nếu cứ nhảy từ phương
pháp này qua phương pháp khác mà không học được điều gì đáng kể trong mỗi thứ
đó.
Lễ điểm đạo của một đạo sư đích thực không hề
giống các giáo phái mê tín: đó là sự tỉnh thức để thấy chính thực tại nội tại của mình, cái mà dù có ngắn ngủi
nó phải được thấy, cái sẽ quyết định sự phát triển tiếp theo cũng như thái độ
sống tích cực của chúng ta. Vì thế, điểm đạo là món quà quý nhất của vị đạo sư,
một món quà quí hơn vô số lần gia nhập tăng đoàn một cách hình thức (hay bất cứ
một hội đoàn tôn giáo nào). Điều này thường được diễn ra bất cứ lúc nào, không
đòi hỏi chất lượng tâm linh của người chủ lễ hay người gia nhập - chỉ cần lượng
tâm linh của người chủ lễ hay người gia nhập - chỉ cần người gia nhập chấp nhận
các qui luật đã định và không bị những bất toàn về tâm linh, đạo lý hay vật lý
của ứng viên.
Thế nên một vị thầy chỉ có thể cho những gì ông
đã chứng đạt được và để trao truyền những gì đã chứng thực, ông phải đủ trình
độ động viên tất cả năng lực nơi mình trước khi làm lễ điểm đạo. Vì thế ông cần
chuẩn bị kỹ lưỡng, không phải chỉ thuần lý như một vị thầy giáo trong trường
trung hay đại học về bài giảng của mình bừng cách thu nhặt tất cả những điểm
chính yếu và trình bày lại với một trình tự có lý và thuyết phục. Ngược lại, sự
chuẩn bị của một đạo sư tâm linh là tự đưa mình tiếp xúc với nguồn suối sâu xa
nhất của năng lực tâm thức, để ông có thể trình bày được cái năng lực và tính
chất mà ông muốn trao truyền. Một sự chuẩn bị như thế có thể kéo dài nhiều ngày
hay nhiều tuần, tùy theo tự tính của năng lực đó hay tính chất của các biểu
tượng tạo tác, chúng là thứ phải được đánh thức trong tâm của người trò và biến
thành sinh động. Người được ấn chứng vì thế phải chuẩn bị bằng cách thanh lọc
tâm thức và chú tâm lên các ý niệm và mục đích, họ sẽ thông qua lễ điểm đạo mà
trở thành thực tại được chứng nghiệm.
Thế nhưng nước thánh của Vô Lượng Thọ có thể
chuyển bằng lễ nghi nguyên thủy, trong đó lễ chuẩn bị cho học trò sự tham gia
đầy ý thức và giảng rõ những hành động và biểu tượng của lễ. Nếu được như thế
thì kẻ tiếp nhận có đủ khả năng hô triệu năng lực của Vô Lượng Thọ cho chính
mình và cho người khác, bằng cách người đó phải thực hành diệu pháp (sadhana)
của Vô Lượng Thọ và phát huy được những tính chất hiện thân cho Vô Lượng Thọ
trong các câu chú của Ngài, cho đến lúc hành giả trở thành chỗ dung chứa xứng
đáng của những tính chất đó. Chỉ khi nào đạt được mức này thì hành giả mới có
thể truyền những năng lực tâm linh lên người khác, những năng lực đã được tự
mình chứng ngộ. Adscho Rimpotsché là một trong những đạo sư hiếm hoi hoàn toàn
ý thức về những điều này. Ông không ngại bất cứ điều gì để chuẩn bị cho chính
mình và cho học trò buổi lễ điểm đạo đến những chi tiết nhỏ nhặt nhất. Bàn thờ
điểm đạo là một tác phẩm nghệ thuật, được dựng lên kỹ lưỡng và đúng nghi lễ của
truyền thống tâm linh - truyền thống mà cái đẹp được diễn tả một cách tự nhiên,
hồn nhiên của ý nghĩa nội tại nằm trong nó, chứ không phải nhằm mục đích đạt
tới một hiệu quả mỹ thuật nào. Yếu tố hiệu ứng của loại nghệ thuật xa lạ, trống
rỗng không hề có tại Tây Tạng.
Bàn thờ tạo nên một man-đa-la hoàn hảo gồm nhiều
biểu tượng và Adscho Rimpotsché giảng cho chúng tôi ý nghĩa và chức năng của chúng,
nhờ đó mà chúng tôi hiểu vai trò của chúng trong buổi lễ. Điều làm chúng tôi
quí nhất là các khai thị của ông về các chi tiết trong nghệ thuật thiền định và
phép tạo linh ảnh, mà lễ điểm đạo đã mở đường cho chúng tôi cũng như các câu
chú được trao truyền mà chúng tôi cần tu tập hàng ngày. Chỉ trên cơ sở của linh
ảnh tạo tác (dhyana), chúng được kết tinh bởi sức mạnh sinh động của các âm nội
tại (mantra) để thành thứ bậc toàn thể của một man-đa-la, chúng tôi mới hiểu
được ý nghĩa của nghệ thuật tôn giáo Tây Tạng nhất là của các tranh thanka và
các bích họa.
CÂU CHUYỆN TẠI DUNGKAR GOMPA
Kể từ ngày Tomo Géché Rimpotsché mất, tôi chưa có
lại lần nào một cảm giác tâm linh tràn ngập mối liên hệ tinh thần sâu xa như
thế, cái nói lên sợi dây giữa thầy và trò. Tuy thế Adscho Rimpotsché vẫn không
hề làm lu mờ ấn tượng của vị thầy đầu tiên của tôi, mà ngược lại, ông trở thành
một mắc xích tiếp theo, nối tôi với ông bằng cách tăng cường và bổ sung những
gì tôi đã nhận được trong thời gian trước ở Yiga - Tscholing. Trong mối liên hệ
đó, tôi cảm động nhớ lại sự hỗ trợ mà tôi nhận được từ bạn đồng môn
(guru-bkhai) viện trưởng Dangkar Gompa, người quản lý tu viện chính của Tomo
Géché Rimpotsché khi ông vắng mặt hay khi ông tái sinh lại nhưng còn nhỏ tuổi
và học tập tại Sera gần Lhasa. Lòng mến khách và sự sẵn sàng giúp đỡ của sư
trưởng trong thời gian tôi lưu trú tại Dungkar Gompa thật là đáng xúc động và
khuyến khích tôi, vì nó cho thấy lòng khoan dung cũng như tôn trọng lẫn nhau
luôn có giữa các chi phái khác nhau trong truyền thống Phật giáo Tây Tạng,
trong đó tất cả những người nhập dòng đều được đáng kính trọng, không kể trường
phái nào.
Người ta cho chúng tôi một Lhakhang nhỏ rất đẹp
để ở, đó là một phòng cúng riêng thường được dành cho các vị lạt ma tái sinh
hay các bậc trưởng thượng. Theo giới luật của phái Gelugpa (sống độc thân) thì
nữ nhân không được lưu trú ban đêm trong tu viện, nên người ta cho Li Gotami ở
trong một phòng nhỏ của tòa nhà ngoài làm chỗ ngủ, đối diện với cửa ra vào. Thế
nhưng Anila không có gì phải sợ khi ở một mình, vị quản đốc viện nói thêm một cách tự
nhiên: “Bà sẽ ngủ chung phòng của vị lạt ma chủ phòng”. Để cho rõ hơn, tôi liền
nói cho quản đốc hay là chúng tôi sẽ ở với nhau trong phòng đó ban đêm vì nếu
hành lý chia đôi thật là bất tiện. Vị quản đốc nói điều đó thật ra không có hậu
ý gì vì tại Tây Tạng, phòng nghỉ thật là khó kiếm và trời giá lạnh nên thường
khách hay du hành hay hành hương hai phái nam nữ đều ngủ chung phòng ban đêm và
người ta không thấy có gì đáng phải băn khoăn.
Chúng tôi sớm có cơ hội để quan sát điều này.
Phòng chúng tôi ngủ đêm có một vách ngăn bằng gỗ, thế nhưng một đầu hở nên nó
chỉ ngăn đôi vậy thôi, bên này có thể nhìn thấy bên kia. Vị lạt ma ngủ một bên
của vách ngăn, còn chúng tôi ngủ bên kia. Ông là người rất thân thiện và ân
cần, không làm phiền điều gì nên chúng tôi thấy góc riêng dành cho mình như ở
nhà vậy.
Trong những ngày lễ, rất nhiều khách từ lũng Tomo
và Amotschu lên tu viện và những ai ở xa không thể về lại cùng ngày đều ngủ đêm
tại Gompa, đàn ông thì ngủ trong tu viện, đàn bà con gái nghỉ trong các tòa nhà
ngoài. Thế nên chúng tôi và vị chủ phòng có khi phải ở chung với một số lớn các
bà, họ không ngần ngại chia nhau nằm trên nền của hai bên vách gỗ và ngủ qua
đêm với chúng tôi.
Trong những chuyến đi sau chúng tôi có dịp quan
sát sự tự nhiên và lòng hiếu khách vô cùng của người Tây Tạng. Họ không bao giờ
câu nệ điều gì. Trong những ngày nóng nực có khi phụ nữ cởi trần tới mông không chút ngượng
ngùng để gội đầu hay tắm rửa, hay trong mùa gặt hái họ ở trần làm việc khi mặt trời trong lũng quá
nóng.
Tất nhiên điều đó chỉ xảy ra ở vùng dân cư còn
đơn giản chứ không còn ở các xã hội đã tinh tế như tại Lhasa, nơi mà chúng tôi
tiếp xúc trong thời gian lưu trú tại Gyantsee. Nơi đó chúng tôi sống thời gian
dài trong tòa Yabschi Punkhang, điện của một gia đình vương giả tại Lhasa, gia
đình này có quan hệ hôn nhân với hoàng gia Sikkim. Nói chung thì vị trí của phụ
nữ tạ Tây Tạng rất cao. Họ đóng một vai trò hàng đầu trong cá nghề nghiệp, chỉ
trừ chính trị, nhà nước hay lãnh đạo tinh thần, các ngành này liên hệ với nhau
trong một chế độ tăng lữ.
Mặc dù trong giới phụ nữ cũng có nhiều nữ tu uyên
bác và sư trưởng đáng nể trọng nhưng phần lớn họ thiêng về đời sống thực tiễn,
họ chuyên ngành buôn bán, quản lý tài sản gia đình. Họ là người thừa kế chính
thức mọi bất động sản, chúng không được chia cho từng con cháu mà được truyền
từ thế hệ này qua thế hệ khác, thông qua người phụ nữ chủ chốt trong gia đình
để tránh chuyện xé lẻ và mất mát của đất đai canh tác vốn hạn chế, đất này
thường được tưới tiêu theo phương pháp thủ công. Vì điều kiện kinh tế này mà
người Tây Tạng phải tìm cách giữ vững dân số của mình theo khả năng cho phép.
Điều này một phần đạt được nhờ tục đa phu - phần lớn ở trong các vùng sa mạc
miền tây Tây Tạng hay vùng núi non phía bắc - phần khác cũng vì tục lệ, trong
gia đình ít nhất phải có một con trai, có khi cả một con gái, cống hiến đời
mình cho hoạt động tâm linh.
Cả tu sĩ nam lẫn nữ đều được trọng vọng, nhất là
những ai uyên bác hoặc thiền định, hoặc thực hành nghi lễ. Đối với người Tây
Tạng thì tri kiến được trọng hầu như là sự thiêng liêng và thường hai mặt này
đều thống nhất ở mức độ cao. Giáo phái Delupa (giáo phái duy nhất tại Tây Tạng
nghiêm khắc giữ đời sống độc thân, ngược với giáo phái khác cho phép tín đồ có
vợ con hay tự giữ độc thân) coi trọng đặc biệt việc nghiên cứu kinh sách tôn
giáo, kể cả nghiên cứu lịch sử, văn minh học, triết học, thơ văn, một phần y
học và thiên văn học. Ngược lại phái Kargyutpa xem trọng sự tu luyện tâm thức
bằng phép thiền định hơn kiến thức sách vở và tài năng tranh luận. Nếu tín đồ
Gelugpa thường học tập lâu dài trong tu viện đại học (như Drepung, Ganden hay
Sera) thì minh chứng cao nhất đối với phái Kargyutpa là khả năng ẩn cư lâu dài
trong hang cốc, trong các thất thiền định độc cư, nơi mà giáo pháp của thầy và
truyền thống tâm linh được thực hành. Việc học hỏi kinh sách không được coi
trọng bằng phép tu thiền định, nó chỉ được dùng như phương tiện cho một số phép
tu (sadhana) và dễ hiểu những nguyên lý căn bản của đạo pháp.

