Hàm Cá Mập - Chương 06

6

Hôm thứ sáu, trên đường từ bệnh viện Southampton
về nhà, Ellen ghé vào bưu điện. Ở Amity thư tín người ta không đưa đến tận nhà.
Nói chung thư, điện khẩn phải được đưa đến bất cứ địa chỉ nào trong vòng bán
kính một dặm quanh trạm bưu điện. Nhưng trên thực tế ngay cả những bức điện
khẩn (chỉ trừ những bức có ghi là do chính phủ liên bang gửi) người ta đều để ở
bưu điện đợi người đến lấy.

Bưu điện đặt ở một ngôi nhà nhỏ trên phố Teal, ngay
cạnh phố Main. Ở đó có năm trăm hòm thư, trong số đó ba trăm bốn mươi hòm là do
những người dân thường trú ở Amity thuê. Một trăm sáu mươi cái còn lại dành cho
dân đi nghỉ, còn cụ thể cho ai thì còn tùy thuộc vào ý thích của nữ trạm trưởng
bưu điện Minnie Eldridge. Những người bà ta có cảm tình thì được phép thuê hòm
thư vào dịp hè. Những người bà ta không có cảm tình thì đành phải đứng xếp hàng
cạnh quầy của bà. Vì không một ai trong số những người vãng lai mùa hè có thể
thuê hòm thư quanh năm được, nên những người đi nghỉ không bao giờ biết là mùa
nghỉ sang năm, khi họ tới đây vào tháng sáu, họ sẽ có hòm thư hay không.

Chẳng ai còn nghi hoặc gì chuyện Minnie Eldridge
đã bước qua cái tuổi bảy chục rồi, nhưng bà ta có cách gì đó không rõ mà thuyết
phục được các nhà chức trách ở Washington là bà còn chưa đạt đến cái tuổi bắt
buộc con người ta về hưu. Bà ta nom bé nhỏ và lọm khọm, nhưng lại khá khỏe và
xử lý với những gói những hộp các tông nhanh cũng gần bằng hai thanh niên làm
cùng chỗ với bà. Bà không bao giờ nói về quá khứ hay đời sống riêng của mình.
Người ta chỉ biết rằng bà sinh ra trên đảo Nantucket và đã rời khỏi đó ngay sau
khi bắt đầu đại chiến thế giới lần thứ nhất. Bà đã sống ở Amity lâu đến mức
trong thị trấn này không ai là không biết bà. Minnie Eldridge coi mình không
những là dân gốc, mà còn là người am hiểu lịch sử thị trấn. Bà hay thích kể
chuyện tại sao thị trấn này lại có tên là Amity, kể về Amity Hopewell, một phụ
nữ sống vào thế kỷ XVII và đã bị kết án tử hình về tội làm phù thủy; Minnie
thấy khoan khoái khi có dịp bàn về những sự kiện lớn trong quá khứ của thị
trấn: về vụ lính Anh đổ bộ trong thời gian diễn ra cuộc chiến tranh giành độc
lập (người Anh định đi vòng qua sườn các đơn vị quân thuộc địa khởi nghĩa, nhưng
bị lạc và cứ quanh quẩn vô tích sự ở vùng Long Island), về đám cháy năm 1823 mà
tất cả các ngôi nhà, trừ nhà thờ, đều bị cháy, về vụ đắm chiếc tàu chở rượu lậu
vào năm 1921 (rút cục người ta đã kéo được con tàu lên mặt nước, nhưng toàn bộ
hàng hóa dỡ khỏi tàu cho nhẹ để dễ kéo lên, đã không cánh mà bay); về cơn bão
năm 1938 và về vụ đổ bộ được loan tin rộng rãi trên báo chí (tuy hoàn toàn
không được xác nhận) của ba tên gián điệp Đức lên bãi tắm ven đường Scotch vào
năm 1942.

Ellen và Minnie tuyệt nhiên không có cảm tình với
nhau. Ellen cảm thấy Minnie không mến chị. Minnie cảm thấy không tự nhiên khi
có mặt Ellen, vì không biết xếp chị vào hạng nào xác định. Ellen không thuộc
đám dân đi nghỉ, cũng không phải là dân sở tại. Quyền sử dụng thường kỳ hòm thư
của chị có được là đồng thời với việc lấy chồng.

Minnie chỉ có một mình trong bưu điện và đang xem
xét phân loại thư tín thì Ellen bước vào:

- Chào bác Minnie, một buổi sáng tốt lành. -
Ellen lên tiếng.

Minnie liếc nhìn đồng hồ treo tường phía trên
quầy rồi sau đó mới đáp:

- Chào cô, buổi trưa tốt lành.

- Bác có tập tem thư tám mươi xu bán cho cháu
chứ? - Ellen đặt lên quầy một tờ năm đôla và ba tờ một đôla.

Minnie bỏ mấy lá thư vào các thùng, đặt đống còn
lại sang một bên rồi tiến lại quầy. Bà ta đưa cho Ellen bộ tem thư rồi quẳng
tiền vào ngăn kéo.

- Martin định làm gì với con cá mập ấy? - Bà ta
hỏi.

- Cháu cũng không rõ. Chắc là người ta định bắt
nó.

- Ai có thể dùng lưỡi câu mà bắt được con
Leviathan[17]?

[17] Leviathan:
tên con thủy quái trong sách Job, một cuốn của kinh Cựu Ước - N.D.

- Xin lỗi, bác nói gì ạ?

- Sách Job ấy mà, - Minni đáp. - Không một kẻ
trần tục nào bắt được con cá ấy.

- Sao bác lại nghĩ thế?

- Số trời không cho chúng ta bắt được nó chứ còn
sao nữa. Cái ấy đã có thiên định.

- Cái ấy là cái gì ạ?

- Chuyện ấy rồi ta khắc biết.

- Cháu hiểu, - Ellen cho tem vào túi xách. - Cũng
có thể bác nói đúng. Cám ơn bác Minnie, - chị quay ra cửa.

- Lời nói của tôi thì cô miễn nghi ngờ, - Minnie
vừa nhìn theo Ellen vừa nói.

Ellen đi ra phố Main, rẽ sang phải, đi qua cửa
hàng bán quần áo mốt của phụ nữ và hiệu đồ cổ. Chị đứng lại ở cửa hàng đồ sắt
và mở cửa. Nhưng không có ai ra đáp lại tiếng chuông réo. Chị đợi một chút, rồi
gọi:

- Chú Albert ơi!

Ellen đi qua khung cửa mở toang dẫn vào tầng hầm.
Tiếng nói chuyện của hai người đàn ông vọng đến tai chị.

- Tôi lên đây, - Albert Morris cất giọng. - Thứ
ấy tôi có cả hộp kia, - bác nói với người đàn ông bên cạnh. - Anh cứ lục tìm đi,
có lẽ sẽ thấy cái anh cần thôi.

Morris xuất hiện ở bậc dưới của thang rồi thong
thả leo lên, cẩn thận từng bước một, tay bác bám vào lan can. Bác đã qua cái
ngưỡng lục tuần, và hai năm trước bác có bị một cơn đau tim.

- Vấu mỏ vịt, - bác vừa leo lên thang vừa nói.

- Cái gì ạ? - Ellen không hiểu.

- Vấu mỏ vịt. Cái anh chàng kia cần thứ ấy. Chắc
anh ta là thuyền trưởng một tàu chở dầu nào đó bởi vì anh ta cứ tìm những vấu
mỏ vịt kích thước to tướng. Còn chị thì cần gì nào?

- Đầu bít cao su vòi nước trong bếp bị hỏng. Chú
biết đấy, cái loại có phần tẽ đôi ấy. Cháu cần một chiếc mới.

- Thế thì đơn giản quá rồi còn gì. Kia kìa. -
Morris đưa Ellen lại giá. - Cô bảo cái này phải không? - Bác lấy lên một đầu
bít cao su.

- Vâng, đúng nó rồi.

- Tám mươi xu. Cho chị nợ hay là trả tiền ngay
đây?

- Cháu trả tiền ngay. Cháu không muốn chú phải viết
lách vào sổ chỉ vì tám chục xu cỏn con ấy.

- Tôi còn có khi phải cho nợ cả những khoản còn
nhỏ hơn ấy chứ, - Morris nhận định. - Tôi có thể kể cho cô hay nhiều chuyện
lắm.

Họ đi dọc căn nhà hàng hẹp tới quầy thu tiền và
Morris vừa viết phiếu vừa nói:

- Nhiều người lo lắng về cái chuyện cá mập ấy
lắm.

- Cháu biết. Có thể hiểu được họ.

- Người ta cho rằng lại phải đóng cửa các bãi tắm
thôi.

- Nhưng mà cháu...

- Theo cách nhìn của tôi thì đầu óc bọn người ấy
chứa toàn rơm rạ cả. Tôi tin rằng Martin hành động đúng.

- Cháu sung sướng được nghe chú nói thế, chú
Albert ạ.

- Có thể là chàng trai mới này sẽ giúp chúng ta
ra khỏi thế bí.

- Chàng trai nào ạ?

- Chuyên gia về cá ở Massachusetts đến.

- Ái chà. Cháu có nghe là anh ta đang ở thị trấn.

- Anh ta đang ở tận ngay nơi đây nữa cơ.

Ellen đưa mắt nhìn xung quanh, nhưng không trông
thấy ai cả.

- Ở đây là ở đâu?

- Ở phía dưới, tầng hầm ấy. Anh ta cần những
chiếc vấu mỏ vịt.

Ellen nghe có tiếng chân bước trên thang. Chị
quay lại và trông thấy Hooper. Một niềm xao xuyến mãnh liệt bỗng ập tới, hệt
như trước mặt chị hiện ra người yêu mà chị không gặp đã bao năm. Chị không quen
anh ta, nhưng đồng thời trong anh ta lại có chút gì đó rất quen thuộc.

- Tôi đã tìm thấy chúng rồi, - Hooper nói, tay
anh cầm hai cái vấu mỏ vịt làm bằng thép không gỉ. Anh bước lại quầy, lịch sự
mỉm cười với Ellen. - Những cái này vừa lắm. - Anh vừa nói với bác Morris, vừa
đặt món hàng lên quầy và đưa cho bác Morris hai mươi đôla.

Ellen nhìn Hooper, cố nhớ xem anh ta gợi cho chị
hình ảnh của người nào. Chị hy vọng bác Albert Morris sẽ giới thiệu họ với nhau,
nhưng có vẻ như bác ta không định làm điều đó.

- Xin lỗi anh, - chị hướng tới Hooper, - tôi có
điều này cần hỏi anh.

Hooper nhìn sang chị và lại mỉm cười - nụ cười
thân thiện dễ mến, nhờ có nó mà những nét gãy góc của khuôn mặt mềm dịu lại, còn
đôi mắt màu xanh lơ nhạt thì sáng lên.

- Chị cứ việc hỏi, - anh nói.

- Không biết anh có họ hàng với David Hooper
không nhỉ?

- Đấy là anh trai tôi. Chị có biết David?

- Có, - Ellen đáp. - Đúng hơn là đã từng biết. Đã
có thời lâu lắm rồi anh ấy theo đuổi tôi. Tôi là Ellen Brody. Trước kia tôi tên
là Ellen Shepherd. Tôi muốn nói vào cái thời ấy đấy.

- Tất nhiên rồi. Tôi có nhớ chị.

- Không có lẽ.

- Tôi nhớ mà. Tôi không nói đùa đâu. Tôi sẽ chứng minh cho chị
xem. Để tôi nghĩ một chút đã... Mái tóc chị hồi đó như mái tóc tiểu đồng
ấy. Và lúc nào chị cũng đeo vòng trang sức. Tôi còn nhớ trên vòng có cái hình
tháp Eiffel lớn. Chị lại thường hay hát một bài... tên bài hát là gì nhỉ? “Sibum”
hay cái gì đó đại loại như vậy. Đúng chưa nào?

Ellen
phì cười.

-
Khiếp thật, cái trí nhớ của anh. Tôi đã quên bài hát ấy rồi.

-
Kỳ lạ lắm, có những chi tiết vụn vặt lại để lại ấn tượng như thế trong tuổi
thiếu niên. Chị đã gặp gỡ với David bao lâu nhỉ... hai năm?

-
Hai mùa hè, - Ellen đáp. - Đấy là khoảng thời gian tuyệt diệu.

-
Chị có nhớ tôi không?

-
Cũng lờ mờ thôi. Tôi chỉ nhớ rằng David có đứa em trai. Chắc khi ấy anh chỉ lên
chín lên mười gì đó.

-
Quãng tuổi ấy. Anh David hơn tôi mười tuổi. Tôi còn nhớ là mọi người gọi tôi là
Matt, cứ làm như tôi là người lớn ấy, - điều ấy khiến tôi thích lắm. Còn chị
thì gọi tôi là Matthew. Chị đã bảo rằng Matthew nghe thanh tao hơn. Hình như
tôi cũng đã mê chị.

-
Thật thế ư? - Ellen đỏ mặt, còn bác Albert Morris thì phá lên cười.

-
Tôi mê tất cả các cô gái mà anh David vẫn gặp gỡ.

-
Không thể có chuyện ấy!

Bác
Morris đưa tiền trả lại cho Hooper, còn anh thì nói với Ellen:

-
Tôi lái xe đi ra cảng. Chở chị đi nhé?

-
Cám ơn. Tôi cũng đi. - Chị cảm ơn bác Morris rồi đi ra cửa. Hooper theo sau.

-
Vậy ra bây giờ anh là nhà bác học? - Chị hỏi khi hai người đã ra ngoài phố.

-
Cũng tại số cả. Thoạt đầu tôi đã định đi chuyên về Anh văn cơ. Nhưng sau có dự
một cua về sinh học hải dương, chẳng qua chỉ vì tò mò, thế mà mắc câu.

-
Đại dương lôi cuốn anh đến thế cơ à?

-
Vừa có lại vừa không. Tôi luôn luôn say mê biển cả. Khi tôi mới mười hai mười
ba tuổi, đối với tôi không có khoan khoái nào hơn việc vớ lấy cái bị ra bãi tắm
rồi nằm trên cát cả đêm, lắng nghe tiếng sóng vỗ và nghĩ xem chúng từ đâu đến
và đã gặp bao nhiêu thứ trên đường đi. Còn cái lưỡi câu mà tôi mắc phải hồi học
đại học là những con cá, còn nếu nói chính xác hơn thì là những con cá mập.

Ellen
phì cười:

-
Lại còn say mê được cá mập nữa kia à? Kinh quá! Cũng chả khác nào có cảm tình
với chuột cống.

-
Nhiều người vẫn nghĩ thế, - Hooper nhận xét. - Nhưng những người ấy lầm. Ở cá
mập có tất cả những gì có thể làm nhà khoa học ngây ngất. Chúng đẹp, trời ạ, chúng
đẹp lắm! Cá mập là một cơ thể nhạy không tưởng tượng được và hoạt động nhịp
nhàng đến lạ lùng. Chúng duyên dáng như loài chim và cũng bí ẩn vô cùng, như
bất kỳ loài sinh vật nào trên trái đất. Không ai rõ chúng sống được bao lâu và
bị những bản năng nào - ngoài sự đói bụng - chi phối. Có hơn hai trăm rưởi loại
cá mập, mà chúng khác nhau rõ rệt lắm! Lắm khi một nhà khoa học cả đời vắt óc
để giải đáp điều bí ẩn của cá mập, đã sắp sửa đưa ra những luận cứ nào đó thì
bỗng dưng một sự kiện mới biến toàn bộ công việc trước kia của người đó thành
con số không. Suốt hai thiên kỷ nay con người đã cố sức tìm một phương tiện có
hiệu quả có thể làm cá mập sợ, nhưng chẳng tìm ra được cái gì cả. - Anh im lặng
nhìn Ellen và mỉm cười. - Xin lỗi. Tôi không định giảng bài đâu. Chẳng qua tôi
cũng hơi hâm hâm, chắc chị đã nhận ra điều đó.

-
Còn anh chắc đã nhận ra là trong vấn đề này tôi mít đặc. Anh đã học ở trưởng
Tổng hợp Yale?

-
Vâng. Còn ở đâu được nữa? Ngoài người chú tôi bị đuổi khỏi trường địa chất ở
Andover, và chú ấy tốt nghiệp hoặc là ở Miami, hoặc là ở Ohio, còn tất cả nam
giới gia đình chúng tôi trong suốt bốn thế hệ đều học ở trường Tổng hợp Yale.
Sau đó tôi vào khoa nghiên cứu sinh của trường Tổng hợp Florida. Rồi hai năm
nay tôi săn lùng cá mập khắp thế giới.

- Ắt là thú vị lắm?

- Thú không thể tả được. Hệt như thả anh bợm rượu
vào nhà máy rượu bia. Tôi đã nghiên cứu cá mập ở Biển Đỏ và đã lặn theo chúng
ngoài bờ biển Australia. Càng tìm hiểu về chúng bao nhiêu, tôi càng vỡ lẽ ra
rằng mình chẳng biết gì về chúng cả.

- Anh đã lặn theo chúng cơ à?

Hooper gật đầu.

- Chủ yếu là ở trong lồng nhưng cũng có khi không
có lồng. Tôi đoán được chị đang nghĩ gì. Nhiều người, như mẹ tôi chẳng hạn cho
rằng tôi đi tìm cái chết. Nhưng một khi đã biết việc mình làm, thì hầu như
không gây cho mình nguy hiểm gì.

- Chắc có lẽ anh là chuyên gia về cá mập cỡ lớn
nhất thế giới.

- Tôi không nghĩ như vậy, - Hooper bật cười, -
nhưng tôi muốn trở nên như vậy. Tôi chỉ không tham gia có mỗi một đoàn thám
hiểm, mà tôi sẵn sàng đổi lấy bất cứ cái gì để được tham gia. Đó là đoàn thám
hiểm của Peter Gimbel. Họ đã ghi hết vào phim, một đoàn thám hiểm như thế thực
đáng mơ ước. Họ đã ở dưới nước với hai con cá mập trắng khổng lồ, cũng cùng
loại với cái con ở đây.

- Tôi lấy làm mừng vì anh không tham gia vào đoàn
thám hiểm ấy. Chắc anh muốn nhìn thế giới từ hàm một con cá mập. Nào, hãy kể
cho tôi nghe về anh David. Anh ấy hiện nay ra sao?

- Nói chung thì tốt đẹp cả. Anh ấy làm môi giới buôn bán
ở San Francisco.

-
Nói chung? Anh ngụ ý gì thế?

-
Chả là anh ấy đã lấy vợ lần thứ hai. Người vợ đầu có lẽ chị biết, là Patty
Fremont.

-
Có chứ. Tôi thường đánh tennis với chị ấy. Chị ấy tiếp quản David từ tôi. Có lẽ
đúng là như vậy đấy.

-
Họ sống với nhau ba năm, cho đến khi chị ta léng phéng với một nhà kinh doanh
cỡ bự, chủ ngôi nhà ở Antibes. Khi ấy anh David tìm cho mình một cô gái khác.
Bố cô ấy là người nắm cổ phần khống chế của một hãng dầu lửa. Cô gái khá là
xinh xắn, nhưng ngu như bò ấy. Giá anh David có một chút ít khôn ngoan thì lẽ
ra không đời nào lại chia tay với chị.

Ellen
bừng đỏ mặt và khẽ lên tiếng:

-
Anh lịch thiệp quá.

-
Tôi nói nghiêm túc đấy. Giá ở địa vị anh ấy thì tôi đã hành động như vậy.

-
Thế ở địa vị anh thì anh sẽ hành động như thế nào? Rút cục cô gái nào sẽ chinh
phục được anh?

-
Hiện giờ thì chưa có cô gái nào. Tôi nghĩ chẳng qua các cô gái không hiểu rằng
họ bỏ lỡ những cơ hội như thế nào, - Hooper bật cười. - Chị hãy kể về mình đi.
Thôi, cũng chả cần. Tôi sẽ thử đoán lấy. Ba con. Đúng không nào?

-
Đúng. Tôi không tưởng rằng điều đó biểu hiện rõ thế.

-
Ấy không đâu. Tôi không có ý nói vậy. Hoàn toàn không biểu hiện gì cả. Hoàn
toàn không. Chồng chị, để tôi đoán nhé, là luật gia. Anh chị có căn hộ ở New
York và có nhà ở Amity. Chắc là rất hạnh phúc. Tôi mừng cho chị.

Ellen
vừa lắc đầu vừa cười.

-
Không hẳn đâu. Tôi muốn nói là anh không đoán được hết mọi thứ. Chồng tôi làm
cảnh sát trưởng ở Amity.

Mắt
Hooper thoáng ngạc nhiên, chỉ trong khoảnh khắc. Vỗ tay lên trán, anh thốt lên:

-
Chà, tôi ngố thật! Thế là Brody. Hay thật. Tôi mới làm quen với chồng chị chiều
hôm qua. Anh ấy có vẻ cũng cừ lắm đấy.

Ellen
có cảm tưởng đã bắt gặp một chút mỉa mai trong giọng nói của Hooper, nhưng lại
gạt ngay ý nghĩ ấy. ”Chẳng có gì để mà tưởng tượng vô cớ cả.”

-
Anh định ở đây có lâu không? - Chị hỏi.

-
Tôi không rõ. Nó còn tùy thuộc vào việc với con cá mập tiến triển đến đâu. Nếu
con cá nó đi thì tôi cũng đi.

- Anh
sống ở Woods Hole?

-
Không xa đấy lắm. Ở Hyannisport. Tôi đã tậu được một ngôi nhà nho nhỏ ngay bờ
biển. Tôi thích ở cạnh nước. Nếu tôi ở cách bờ biển quá mười dặm là ở tôi lại
bột phát cơn bệnh sợ không gian bó kín.

-
Anh chỉ sống có một mình thôi à?

-
Vâng, có một mình thôi. Chỉ có tôi, một đống sách vở và bộ stereo mà tôi đã
phải chi một cọc tiền to. Này, chị có còn nhảy nữa không?

-
Tôi nhảy ấy à?

-
Vâng. Bây giờ tôi mới sực nhớ. Anh David thường bảo rằng chị là người bạn nhảy
cặp cừ nhất trong số tất cả những người đã từng nhảy với anh ấy. Chị đã đoạt
giải thi có phải không?


vãng tựa như con chim bị nhốt lâu trong lồng và đột nhiên được thả ra ngoài tự
do, đang kéo đến lượn quanh chị. Lòng chị se lại vì nỗi buồn. Chị đáp:

- Vâng,
đó là cuộc thi biểu diễn điệu samba[18]. Ở Beach Club. Nhưng tôi
không nhớ nữa. Không, tôi chẳng còn nhảy nữa. Martin không nhảy, mà nếu có nhảy
chăng nữa, thì bây giờ tôi nghĩ là người ta không còn chơi điệu nhạc ấy nữa.

[18] Một điệu nhảy đôi
nhanh, bắt nguồn từ điệu nhảy dân gian Braxin (samba) - N.D.

-
Tiếc quá. Anh David nói là chị nhảy tuyệt lắm.

-
Đấy là buổi khiêu vũ kỳ thú. - Ellen nói, chị đang chìm đắm trong ký ức để tái
hiện lại trong trí nhớ những chi tiết nhỏ nhất. - Nhạc Jazz của Lester Lanin.
Beach Club được trang hoàng bằng những quả chuông làm từ giấy bạc và những quả
bóng bay. Anh David mặc chiếc áo vét đỏ ưa thích của mình.

-
Bây giờ cái áo ấy tôi giữ, - Hooper nói. - Anh ấy trao lại cho tôi mặc.

-
Hồi đó người ta chơi những bài hay thật. Anh David nhảy điệu tuxtép[19]đạt
lắm. Làm bạn nhảy với anh ấy trong điệu tuxtép không phải là đơn giản, nhưng
anh ấy không thích vanxơ, anh ấy bảo rằng vanxơ chóng mặt lắm. Hồi ấy ai cũng
rám nắng, hình như cả mùa hè không có lấy một giọt mưa nào. Tôi còn nhớ buổi
tối hôm ấy tôi mặc cái áo dài màu vàng, rất hợp với làn da bắt nắng của tôi. Có
tiến hành hai cuộc thi: một đằng là thi nhảy saclơxtơn[20], cặp
Susie Kendall và Chip Forgaty đã giật giải. Một đằng thì samba. Người ta nổi
điệu “Braxin” ở mãi tận cuối, chúng tôi đã nhảy như thể toàn bộ đời mình tùy
thuộc vào đó. Tôi đã tưởng khi điệu nhảy kết thúc thì tôi sẽ sụn xuống. Anh có
biết giải thưởng chúng tôi giành được là cái gì không? Một lon gà hộp. Hộp ấy
đã để ở phòng tôi cho mãi đến khi nó trương phình lên rồi bố tôi bắt ném nó đi.
- Ellen mỉm cười. - Dạo đó vui vẻ thật. Tôi vẫn phải cố gắng đừng nghĩ đến nó
nhiều quá.

[19] Two-step (hai bước) - tên một điệu
nhảy đôi của Mỹ - N.D.

[20] Charleston (gọi
theo tên thành phố Charleston là nơi điệu nhảy ra đời). Một điệu nhảy
ngẫu hứng Mỹ, đặc trưng bằng những vòng quay bàn chân vào trong đồng thời mình
hơi nhún xuống theo nhịp; nhịp nhảy từ nhanh vừa đến nhanh - N.D.

-
Tạo sao vậy?

-
Chúng ta vô tình luôn luôn tô hồng quá khứ. Rồi sau đó, trong tương lai, chúng
ta sẽ lại nghĩ về hiện tại y như thế. Khi người ta hay hồi tưởng lại những nỗi
vui sướng đã qua thì trong lòng trở nên buồn bã. Bắt đầu nảy ra cái cảm tưởng
là không bao giờ còn có thể tốt đẹp đến như trước kia nữa.

-
Ấy thế mà tôi lại không nghĩ về quá khứ.

-
Thật thế ư? Tại sao vậy?

-
Chẳng qua nó chẳng lấy gì làm tuyệt diệu cho lắm, chỉ có thế thôi. David là con
cả. Còn chuyện sinh tôi ra đời thì cha mẹ đã phải suy nghĩ trước đó một chút.
Theo tôi hiểu thì bố mẹ tôi muốn bằng cách ấy củng cố mối quan hệ gia đình.
Nhưng tôi đã không thể giúp họ việc đó được. Thật khá tồi tệ, khi anh không đáp
ứng được hy vọng chủ yếu nhất. Khi cha mẹ tôi bỏ nhau thì anh David đã hai mươi
tuổi. Còn tôi chưa đủ mười một tuổi. Thủ tục ly dị cũng không dễ dàng. Mà cả
mấy năm trước đấy cũng chẳng êm thấm gì. Một chuyện tầm thường, ít có điều gì
vui trong đó. Có thể là tôi hơi cường điệu. Nhưng dù thế này hay thế khác tôi
vẫn mong chờ nhiều ở tương lai. Tôi ít khi ngoảnh lại quá khứ làm gì.

-
Có thể như thế thì đúng hơn.

-
Tôi không rõ. Có lẽ giá tôi có một dĩ vãng hạnh phúc thì tôi đã sống chủ yếu
với nó. Nhưng mà... chuyện ấy thế là đủ. Tôi phải ra cảng đây. Hay là
để tôi chở chị đi đâu đó?

-
Không, cảm ơn anh. Ôtô của tôi đỗ ở bên kia phố mà.

-
Thôi được. Chị biết không... - Hooper chìa tay ra. - Thật quả là tuyệt vời
khi được gặp lại chị, và tôi hy vọng còn được trông thấy chị trước khi rời khỏi
nơi đây.

-
Tôi cũng mong muốn như vậy. - Ellen đáp, tay chị nắm chặt tay Hooper. Chắc tôi
chẳng dám chắc rằng có thể rủ chị ra sân chơi tennis được đâu nhỉ?

Ellen cất tiếng cười.

- Ra sân tennis? Tôi đã chẳng còn nhớ cầm vợt
tennis lần cuối cùng là khi nào nữa rồi. Dù sao cũng cảm ơn anh đã có lời mời.

- Không dám. Hẹn gặp lại nhé. - Hooper quay đi và
rảo bước trên vỉa hè tới chiếc xe Ford màu xanh lá cây.

Ellen đứng nhìn Hooper nổ máy và lách xe từ bãi
đậu ra phố. Khi anh cho xe đi ngang qua, chị giơ tay lên vẫy một cách rụt rè
thiếu tự tin. Hooper thò tay trái ra ngoài cửa sổ xe vẫy lại. Sau đó anh ngoặt
khuất vào góc phố.

Một nỗi buồn day dứt, khủng khiếp ập đến Ellen.
Rõ ràng hơn bao giờ hết, chị bỗng hiểu ra rằng quãng đời tốt đẹp nhất của mình
- cái phần tươi sáng và sung sướng đã chìm vào dĩ vãng. Nhận thức được điều ấy,
Ellen cảm thấy có lỗi: như vậy có nghĩa rằng chị không phải là một người mẹ
hiền, một người vợ hiền. Chị căm ghét cuộc đời của mình, chị căm ghét bản thân
vì đã có cái nỗi căm ghét ấy. Chị bỗng thấy gợi lên câu hát mà Billy đã chơi
trên bộ stereo: “Em sẵn lòng đổi tất cả những ngày mai của mình chỉ để lấy một
ngày hôm qua.” Chị có dám đồng ý đánh đổi như thế không? Ellen ngẫm nghĩ.
Nhưng suy tư giờ còn tích sự gì nữa? Những cái ngày hôm qua ấy đã bay vèo đi
rồi. Chẳng thể lấy lại được một cảm tưởng hạnh phúc nào của quá khứ nữa, chúng
đã phóng đi ngày một xa về nơi không có lối trở lại.

Chị lại nhớ đến khuôn mặt tươi cười của Hooper.
Hãy quên anh ta đi, chị tự nhủ. Tất cả những cái đó là trò ngốc nghếch. Không -
là sự tự hạ mình.

Ellen bước qua phố và ngồi vào ôtô. Khi đã ra đến
đường cái, chị nhìn thấy Larry Vaughan đang đứng trong góc phố. “Trời,” chị
kinh ngạc nghĩ, “cái ta nghĩ trong lòng thì ở ông ta nó hiện lên trên mặt.”

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3