Hàm Cá Mập - Chương 03 phần 1
3
Mấy phút sau Brody đứng dậy và tiến lại chiếc
ôtô. Phải gọi xe cấp cứu từ bệnh viện Southampton mới được. Một tiếng sau chiếc
xe tới. Thi thể, nói đúng hơn là phần trên của nó, được bỏ vào cái bị cao su và
được chở đi.
Đúng mười một giờ Brody đã ngồi trong phòng làm
việc của mình và lập biên bản về vụ tai nạn.
Anh đã viết xong hết, chỉ còn điền nốt mục “nguyên
nhân chết” nữa thôi, thì có tiếng chuông điện thoại vang lên.
- Carl Santos đây, Martin đấy phải không? - Brody
nhận ra ngay giọng của điều tra viên tư pháp.
- Phải, Carl ạ. Ông muốn nói với tôi cái gì nào?
- Nếu ông không có căn cứ để cho rằng đã xảy ra
một vụ giết người, thì tôi có thể nói rằng đó là tại cá mập.
- Giết người ư? - Brody hỏi lại.
- Cá nhân tôi thì không nghĩ như thế. Nhưng tôi
có thể giả định, tuy rất khó tin, rằng một kẻ rồ dại nào đó đã đàn áp nạn nhân
bằng rìu và cưa.
- Không, đấy không phải một vụ giết người, Carl
ạ. Không có lý do để giết, không có công cụ để gây tội ác, và không có kẻ bị
tình nghi, nếu xét đoán một cách lý trí.
- Thế thì là cá mập. Lại phải là đồ to khỏe lắm
đấy. Đây cũng không phải là chân vịt tàu thủy chuyên tuyến. Phải nó thì nó đã
chẻ đôi cô gái ra cơ, nhưng đằng này...
- Đủ rồi, Carl, - Brody cắt ngang. - Ta sẽ không
thảo luận chi tiết. Không thì ruột gan tôi lại tùng phèo lên bây giờ.
- Xin lỗi Martin. Thế thì tôi sẽ ghi là cá mập
tấn công. Tôi cho là giả thuyết này hợp với ông nhất, nếu như ông không... có
những ý kiến đặc biệt.
- Không, - Brody nói. - Lần này thì không. Cám ơn
ông đã gọi điện, Carl ạ.
Anh đặt ống nghe xuống, điền vào mục “nguyên nhân
chết” mấy chữ “bị cá mập tấn công” rồi ngả người ra lưng ghế.
Ý nghĩ rằng trong việc này có thể có những dự
kiến đặc biệt trước kia chưa nảy ra trong đầu anh. Những dự kiến đặc biệt này
đôi khi đặt anh vào những tình thế tế nhị khó xử, khi anh buộc phải tìm kiếm
phương pháp bảo vệ lợi ích chung để khỏi làm hại đến thanh danh cả của mình lẫn
của pháp luật.
Mùa nghỉ chỉ vừa mới bắt đầu, và Brody hiểu rằng:
sự yên ổn của Amity trong suốt cả năm tùy thuộc vào việc ba tháng hè này sẽ
trôi qua như thế nào. Một mùa nghỉ thành tựu sẽ tạo cho thị trấn khả năng sống
không đói kém cho đến những tháng hè năm sau. Mùa đông, dân số Amity là một
nghìn người, còn vào một mùa hè tốt đẹp số lượng người tăng đến chục nghìn. Và
chín nghìn người đi nghỉ đảm bảo cho sự sinh tồn của một nghìn dân sở tại trong
cả năm.
Chủ các cửa hàng kim khí, hàng thể thao và chủ
hai trạm tiếp xăng, chủ dược phẩm - ai ai cũng trông cậy vào mùa hè lời lãi sẽ
giúp họ đứng vững được qua mùa đông. Vợ đám thợ mộc, thợ tiện, thợ sửa ống nước
đến hè là lại làm phục vụ ăn uống hoặc làm nhân viên các công ty bán bất động
sản để nuôi sống gia đình trong mùa đông. Ở Amity chỉ có hai cơ sở có quyền
buôn bán rượu quanh năm, cho nên đối với đa số các hiệu ăn và quán bar thì ba
tháng hè có ý nghĩa quyết định. Còn đám dân đánh cá cho thuê tàu thuyền, thì
cần có thời tiết tốt và sự cắn câu mau mắn, nhưng trước hết là cần có khách
hàng.
Ngay cả sau những dịp hè thuận lợi nhất thì mùa
đông ở Amity cũng vẫn khó khăn. Cứ mười gia đình thì có ba sống bằng tiền trợ
cấp. Nhiều kẻ nam nhi mùa đông buộc phải lên bờ bắc đảo Long Island để gia công
các mái chèo con con cốt lĩnh được vài đôla một ngày.
Brody biết rằng: chỉ cần một mùa hè không ăn nên
làm ra là số người sống vào tiền trợ cấp sẽ tăng gấp đôi. Nếu tất cả các ngôi
nhà không được thuê đầy kín, thì người da đen ở Amity sẽ không có việc làm, mà
vốn nhiều người trong số họ phục vụ tại các khách sạn, được thuê làm người làm
vườn, phục dịch các bar. Hai ba mùa hè khốn khó kéo liền nhau - mà điều này thì
ơn Chúa, hai chục năm nay chưa bị - có thể bóp chết thị trấn. Nếu con người ta
không có tiền để may sắm quần áo, nhiên liệu và thực phẩm, nếu như họ không có
tiền sửa chữa nhà cửa và các tiện nghi sinh hoạt thì các nhà buôn và các công
ty dịch vụ công cộng sẽ thua lỗ và không thể trụ đến mùa hè sang năm được. Các
cửa hàng sẽ đóng cửa, dân chúng Amity sẽ phải đi mua thực phẩm ở các nơi khác.
Thu nhập thuế sẽ đình lại, các cơ quan hành chính sẽ sa sút và sẽ bắt đầu tràn
lan một cuộc bỏ chạy bán xới khỏi thị trấn.
Thành thử dân chúng Amity phải nâng đỡ lẫn nhau, từng
người có nghĩa vụ cống hiến phần mình vào sự thịnh vượng của thị trấn. Brody
sực nhớ chuyện vài năm trước có hai anh em, hai thanh niên đến Amity và mở
xưởng mộc tại đây. Anh em Felix đến vào mùa xuân khi mà công việc có nhiều -
người ta đang sang sửa các nhà ở cho du khách, nên họ niềm nở đón tiếp hai
anh em. Trong công việc hai anh em này tỏ ra rất thành thạo, thế là
nhiều thợ mộc của địa phương san sẻ các đơn đặt hàng với họ.
Nhưng đến giữa hè thì bắt đầu lan ra những tin
đồn xấu về hai anh em. Albert Morris, chủ cửa hàng kim khí nói rằng bọn họ mua
đinh thép thường, nhưng sau lại tính tiền như đinh tráng kẽm. Ở Amity khí hậu
ẩm ướt, mang tính chất biển, nên đinh thép chỉ sau vài tháng là gỉ. Dick
Spitzer chủ hộ vật liệu gỗ, đã đưa chuyện với ai đó, rằng anh em nhà Felix đã
đặt mua một đợt gỗ chất lượng kém để dùng cho một ngôi nhà ở đường Scotch.
Các cửa tủ bị vênh gần như ngay sau khi mắc vào bản lề. Có lần trong quán, Felix
anh, tên là Armando đã huênh hoang trước các bạn rượu của mình rằng hắn khéo
léo lừa người đặt hàng ra làm sao: công việc theo hợp đồng chỉ thực hiện hai
phần ba mà tiền thì lĩnh cả. Còn Felix em - người ta gọi gã là Danny và mặt gã
đầy trứng cá - thì thích trưng với bạn bè các cuốn sách khiêu dâm, đã thế lại
còn khoe khoang rằng gã đánh cắp được ở các nhà mà gã đến làm việc.
Thợ mộc sở tại không còn san sẻ đơn đặt hàng với
anh em Felix, nhưng tới lúc này hai anh em đã phát tài và có thể ung dung sống
qua mùa đông. Chính khi ấy thì tính đoàn kết của dân chúng Amity đã thể hiện
ra. Thoạt đầu người ta chỉ nói bóng nói gió với họ rằng họ đã ở lại thị trấn
hơi lâu rồi đấy. Armando nghe đến đó chỉ ngạo mạn cười khẩy. Chẳng bao lâu sau
đủ thứ khó chịu lặt vặt bắt đầu. Tự dưng tất cả các lốp xe của chiếc ôtô tải
nhà hắn xì hết hơi, mà khi hắn gọi điện cho trạm bảo dưỡng thì người ta trả lời
là cái máy bơm nén của họ hỏng rồi. Khi hắn cần thay một bình hơi thì các công
ty địa phương dây dưa tới những tám ngày. Đơn đặt hàng của hắn đối với vật liệu
xây dựng hoặc các vật liệu khác hoặc là không tới đúng địa chỉ hoặc là được
thực hiện sau cùng. Tại các cửa hàng trước kia hắn vẫn mua khất thì bây giờ
người ta đòi tiền mặt. Đến cuối tháng mười hãng “Anh em Felix” đã phải cuốn cờ
và hai anh em hắn bỏ đi.
Phần đóng góp của Brody vào tình đoàn kết hiện
tại của Amity - ngoài việc anh duy trì pháp chế và thông qua những quyết định
tỉnh táo, chín chắn - còn ở chỗ ngăn chặn mọi tin nhảm, mà nếu ở Amity có xảy
ra các tai nạn sự cố gì thì, sau khi thảo luận với Harry Meadows, chủ bút báo
Leader, phải đưa chúng trong mục Tin tức dưới ánh sáng cần thiết.
Nếu cảnh sát chặn xe của ai đó trong đám nhà giàu
đi nghỉ đang lái xe trong trạng thái có hơi men thì trong sổ ghi chép Brody
thích nhận xét - ngay lần vi phạm đầu tiên - rằng lái xe không mang theo bằng
và ở tờ Leader tin ấy được đăng tải ngay. Brody luôn luôn cảnh cáo lái xe rằng
lần sau, nếu người đó còn dám lái xe trong trạng thái không tỉnh táo thì
họ sẽ lập biên bản và đưa ra truy cứu trách nhiệm pháp lý.
Sự hợp tác giữa Brody và Meadows mang tính chất
hết sức tinh tế. Nếu có nhóm thiếu niên nào từ thị trấn lân cận đến gây ra ẩu
đả ở Amity thì Meadows luôn nắm được thông tin đầy đủ: họ tên, tuổi tác và các
lời buộc tội kèm theo. Còn nếu chính đám thanh niên của thị trấn Amity lộng
hành thì trên tờ Leader theo lệ thường, chỉ gói gọn một mẩu tin nhỏ không có họ
tên và địa chỉ, trong đó thông báo với các bạn đọc rằng ở đâu đó trên đường Old
Mill dã xảy ra một vụ vi phạm trật tự xã hội, do đó mà cảnh sát đã được gọi
đến.
Bởi vì một vài người đi nghỉ coi Leader là tờ báo
lý thú và đặt mua quanh năm, nên vấn đề cướp bóc và trấn lột mùa đông ở các
biệt thự thanh vắng đã đạt tới mức tế nhị đặc biệt. Đã nhiều năm Meadows bỏ qua
vấn đề ấy, dành quyền cho Brody chăm lo việc thông báo cho các chủ biệt thự bị
cướp, trừng trị những kẻ phạm pháp và loại trừ các thiệt hại. Nhưng mùa đông
năm 1963, trong vòng một tháng đã có mười sáu nhà bị cướp. Brody và Meadows đi
đến kết luận rằng đã tới lúc tiến hành trên tờ Leader một chiến dịch rộng rãi
chống các hành vi phá hoại xã hội. Kết quả của chiến dịch này là tại bốn mươi
tám nhà đã lắp hệ thống tín hiệu với đồn cảnh sát, và bởi vì bọn côn đồ không
biết nhà nào có hệ thống tín hiệu, nhà nào không nên các vụ cướp gần như chấm
dứt. Điều ấy làm nhẹ gánh công việc cho Brody nhiều lắm và nâng uy tín của
Meadows lên.
Đôi khi giữa Brody và Meadows cũng nảy sinh những
bất đồng. Meadows thì kịch liệt chống bọn ma túy. Thêm nữa ông ta lại có một
linh cảm nhạy bén khác thường của anh ký giả, hễ đánh hơi có chuyện gì là ông
ta lần theo dấu vết như một con chó săn lão luyện, dĩ nhiên là nếu như không có
“những dự kiến đặc biệt” kèm theo. Mùa hè năm 1971, con gái một nhà giàu ở
địa phương khi tìm ra thì đã chết. Ở bãi tắm, ngay sát mép nước, gần đường
Scotch. Theo quan điểm của Brody thì không có chứng cớ nào về một cái chết do
bạo hành cả và vì gia đình cô ta phản đối việc mổ tử thi nên người ta đã chính
thức tuyên bố rằng cô gái bị chết đuối.
Thế nhưng Meadows có cơ sở để cho rằng cô gái đã
sử dụng ma túy và số ma túy ấy do con trai một chủ nông trại trồng khoai tây
cung cấp. Meadows phải mất đến gần hai tháng để gỡ nút vụ này, cuối cùng ông ta
đã đòi được mổ tử thi, và phát hiện ra cô gái bị chết đuối sau khi mất tri giác
vì một liều hêrôin lớn. Ông đã lần ra kẻ buôn bán hêrôin và cả một băng chuyên
tung các chất ma túy ra thị trấn. Vụ này đã làm hại nhiều đến danh tiếng của
Amity, còn nặng hơn nữa đến cả bản thân Brody. Kể ra Brody cũng đã tổ chức một
hai cuộc bắt bớ, nhưng việc này có dính dáng đến vấn đề vi phạm pháp luật, nên
anh không hoàn toàn ém nhẹm được thiếu sót trong công tác của mình. Còn Meadows
thì đã hai lần được tặng các giải thưởng đặc biệt của các nhà báo.
Bây giờ đến lượt Brody khăng khăng đòi tờ báo
phải đăng chuyện vừa xảy ra. Anh định đóng cửa bãi tắm trong hai ba ngày cho cá
mập có thời gian đi xa khỏi bờ. Anh không rõ là sau khi đã nếm mùi thịt người
rồi, cá mập có đâm ra nghiện hay không (ở hổ thì anh nghe nói là có), nhưng
lòng anh đầy quyết tâm bảo đảm an toàn tính mạng cho nhân dân. Lần này anh muốn
loan báo công khai, muốn mọi người cảnh giác: phải lo tránh xa mặt nước ra.
Brody hiểu rằng anh sẽ phải đụng độ với phái đối lập hùng mạnh chống lại việc
đăng báo vụ này. Cũng như các thành thị khác, Amity tiếp tục bị khổ sở vì những
hậu quả của suy thoái kinh tế. Đầu mùa hiện giờ còn chưa hứa hẹn tốt đẹp gì.
Người thuê nhà nhiều hơn năm ngoái, nhưng chủ yếu là loại “tép riu”: những đám
thanh niên mươi mười lăm người một đoàn từ New York đến và thuê chung nhà. Ít
nhất mười hai ngôi nhà bên bờ biển giá từ bảy đến mười nghìn đôla cả mùa và vô
vàn những ngôi nhà khác giá quãng năm nghìn đôla cho đến giờ vẫn chưa có khách.
Cái tin chấn động về cá mập có thể sẽ đưa lại thảm họa cho Amity. Lại nữa, Brody
hy vọng rằng một trường hợp rủi ro vào giữa tháng sáu, khi làn sóng những người
đi nghỉ còn chưa tràn đến, sẽ bị mau chóng quên đi. Tất nhiên, một tai họa sẽ
ít để lại ấn tượng hơn hai hoặc ba. Rất có thể là cá mập đã bỏ đi rồi, nhưng
Brody dầu sao vẫn không muốn mạo hiểm với tính mạng con người.
Anh quay số điện của Meadows.
- Chào Harry, - anh nói... - Hay là ta đi ăn với
nhau nhé?
- Tôi cũng đang chờ ông gọi điện đây, - Meadows
đáp. - Nhất trí thôi. Ăn ở đằng ông hay đằng tôi nào?
Brody chợt thấy ngay ra rằng anh không nên nói
chuyện ăn uống vội. Dạ dày anh vẫn còn sủi réo ùng ục, chỉ nội nghĩ đến ăn là
đã thấy buồn nôn rồi. Anh nhìn tấm lịch tường. Thứ năm. Cũng như tất cả những
người quen biết khác sống bằng đồng lương eo hẹp, vợ chồng Brody vẫn mua những
thứ bán rẻ vào ngày này ở siêu thị. Thứ hai mua thịt gà, thứ ba thịt cừu và cứ
thế mà tiếp, sự đa dạng duy nhất trong thực đơn của họ là rắn đẻn và cá rô -
nếu như một ngư dân quen nào đó cho họ. Vào thứ năm bán giá hạ thì có món
bít-tết băm. Nhưng thịt băm thì hôm nay Brody trông thấy đã quá đủ rồi.
- Ở đằng nhà ông nhé, - anh nói. - Cứ để cho
người ta bưng cho chúng ta món gì đó ở hiệu. Ta sẽ ăn trong phòng làm việc của
ông.
- Xong ngay, - Meadows nói. - Gọi cho ông món gì
nào?
- Xalát với trứng và một cốc sữa. Tôi sẽ lại đằng
ông ngay bây giờ đây. - Brody gọi điện cho Ellen báo sẽ không về ăn cơm nhà.
Harry Meadows người mập thù lù, ngay đến một hơi
thở sâu cũng đòi hỏi ở ông ta không ít sức lực đến nỗi những giọt mồ
hôi toát ra trên trán. Ông ta gần năm mươi, ăn rất nhiều, hút xì gà rẻ tiền, uống
uýt-xki và như ông bác sĩ đã nói, chiếm chỗ hàng đầu trong số các ứng cử viên
của bệnh nhồi máu cơ tim lan tràn trong thế giới phương Tây.
Khi Brody bước vào, Meadows đang phẩy khăn mặt
xua những cụm khói xì gà về phía cửa sổ để ngỏ.
- Cứ xét theo các món ăn ông gọi cho bữa trưa thì
sức khỏe của ông tồi lắm rồi đấy, - ông ta nói. - Tôi đang thông khí căn buồng
đây này.
- Cám ơn sự săn sóc của ông.
Brody đưa mắt nhìn cái phòng nhỏ chất đầy báo chí,
giấy má để tìm chỗ có thể ngồi được.
- Ông cứ hất khỏi ghế cái mớ lăng nhăng này đi. -
Meadows nói. - Toàn báo cáo đủ loại đấy mà. Báo cáo từ quận, báo cáo
từ bang, báo cáo của ủy ban đường ôtô và của ủy ban cấp nước. Có dễ tốn đến
hàng triệu bạc, mà xét về quan điểm thông tin thì chẳng được tích sự gì.
Brody nhấc chồng giấy đặt lên thiết bị lò sưởi.
Sau đó anh kéo ghế lại bàn viết và ngồi xuống. Meadows rút trong túi giấy lớn
ra bao sữa và miếng bánh mì kẹp nhân bọc giấy bóng rồi đẩy lại phía Brody. Sau
đó mới lấy phần ăn của mình ra: bốn gói riêng; ông giở chúng ra và tựa như
người thợ kim hoàn trưng bày những đồ châu báu hiếm, ông lần lượt bày một cách
nâng niu trước mình khoai tây rán, thịt viên tẩm nước sốt cà chua, dưa chuột
ngâm cỡ như quả bí con và một phần tư cái bánh chanh. Ông lôi từ tủ lạnh đặt
sau lưng ra một lon bia lớn.
- Rõ ra trò, - Meadows vừa nhìn khắp mặt bàn đồ
ăn vừa nói.
- Tuyệt thật, - Brody nuốt cái ợ chua rồi nói. -
Tuyệt hết chỗ nói. Tôi đã ăn với ông có dễ đến nghìn lần rồi mà vẫn chưa thể
quen với cảnh tượng này được, Harry ạ.
- Mỗi người đều có chỗ yếu của mình, ông bạn ơi, -
Meadows vừa vớ lấy miếng bánh mì kẹp nhân vừa nói. - Có kẻ chạy theo vợ người
ta. Có kẻ lại thích rượu nặng. Tôi thì tìm lạc thú trong việc vỗ béo cho cơ thể
mình.
- Ông nghĩ xem, Dorothy sẽ cảm thấy “lạc thú” như
thế nào, khi đến một ngày kia quả tim ông không chịu được nữa phải bảo: vĩnh
biệt nhé, anh chàng phàm ăn tục uống, với tôi thế là đủ rồi!
- Tôi đã nói chuyện này với Dorothy, - sau khi
tống đầy mồm, Meadows lên tiếng, - và đã đi đến kết luận rằng một trong những
ưu việt ít ỏi của con người so với các sinh vật khác là ở chỗ anh ta có thể tự
chọn cho mình một cái chết. Sự ăn uống có thể sẽ giết chết tôi, nhưng nó là cái
cho tôi lạc thú ở đời. Vả lại, chết vì tham ăn vẫn còn hơn là chết trong bụng
cá mập. Sau cái chuyện xảy ra sáng nay thì tôi tin rằng ông sẽ đồng ý với tôi.
Brody chưa kịp nhai hết miếng bánh mì, anh phải
nỗ lực lắm mới nuốt nổi.
- Ông thật chẳng biết thương người tí nào, - anh
nói.
Họ
im lặng ăn trong vài phút. Brody ăn hết phần bánh của mình, uống xong sữa, vo
giấy lại thành cục rồi nhét nó vào cái cốc con bằng nhựa. Ngả người ra ghế, anh
lấy thuốc hút. Meadows vẫn còn ăn, Brody biết rằng không có gì có thể làm mất
sự ngon miệng của bạn mình được. Anh nhớ có một lần, Meadows, khi đã tới nơi
xảy ra tai nạn ôtô chết người, vừa hỏi han các cảnh sát và những hành khách còn
lành lặn, vừa nhai kẹo.
-
Nhân cái chết của cô Watkins, - Brody vào đề, - trong đầu tôi mới phác ra những
ý nghĩ như thế này, tôi muốn ông nghe tôi.
Meadows
gật đầu.
-
Thứ nhất là về nguyên nhân cái chết, theo cách nhìn của tôi thì không thể có
hai ý kiến. Tôi đã nói với Santos rồi...
-
Tôi cũng thế.
-
Vậy là ông cũng biết anh ta nghĩ gì. Đó là do cá mập tấn
công. Rõ như ban ngày rồi. Nếu như ông có trông thấy thi thể, ông cũng phải nói
như vậy.
- Tôi đã trông thấy thi thể rồi.
Brody sửng sốt. Không lẽ con người hôm nay vừa
mới trông thấy cái đống lầy nhầy ấy, bây giờ lại có thể ung dung ngồi mút nhân
bánh chanh ở ngón tay?
- Nghĩa là ông đồng ý với tôi?
- Ừ. Tôi đồng ý rằng cô ấy chết vì bị cá mập tấn
công. Nhưng có một loạt những tình tiết mà tôi chưa rõ.
- Ví dụ?
- Ví dụ, tại sao cô ấy lại đi tắm vào thời gian
ấy. Ông biết nhiệt độ không khí lúc nửa đêm là bao nhiêu không? Sáu chục độ[10].
Còn nhiệt độ nước? Quãng năm chục[11], phải là người không bình
thường mới đi tắm vào cái lúc lạnh như thế.
[10] Ở
đây tính theo độ Fahrenheit. Sáu mươi độ Fahrenheit bằng 15.6oC -
N.D.
[11] 50oF
= 10oC - N.D.
- Hoặc là người say rượu, - Brody đệm vào.
- Có thể. Ừ, mà có lẽ ông nói đúng. Tôi đã cho
hỏi rồi: vợ chồng Foote không xài marijuana và các loại cây cỏ tương tự. Tôi
đang lo điều khác kia.
Brody cảm thấy bực dọc.
- Thôi, Harry ạ, ông thì chỉ chực đuổi theo những
bóng ma thôi. Thật ra thì thỉnh thoảng con người ta cũng chết vì tai nạn.
- Tôi không nói chuyện ấy. Chẳng qua khó mà tin
được rằng ở chỗ chúng ta đây lại xuất hiện cá mập, nước hãy còn lạnh kia mà.
- Có thể một số cá mập thích nước lạnh. Chúng ta
nào đã biết gì về cá mập?
- Có loài cá mập Greenland, nhưng chúng chưa bao
giờ bơi về phương nam xa đến như vậy, mà nếu có bơi thì thông thường
là chúng không động đến người. Chúng ta biết gì về chúng ư? Tôi xin nói với ông
rằng: lúc này đây tôi biết về chúng kỹ hơn nhiều so với ban sáng. Sau khi tôi
trông thấy phần thi thể còn sót lại của cô Watkins, tôi đã gọi điện cho một cậu
người quen của tôi tại Viện Hải dương học Woods Hole. Tôi đã mô tả cái xác cho
cậu ấy nghe, cậu ta bảo rằng cứ theo mọi khía cạnh mà suy thì chỉ có một loại
cá mập có thể làm được như vậy thôi.
- Loại nào?
- Cá mập trắng lớn. Có những loài khác cũng tấn
công con người, chẳng hạn cá mập hổ, cá mập búa, và có thể cả cá macô và cá mập
xanh lơ, nhưng cái cậu này, cậu Hooper - Matt Hooper - đã nói với tôi rằng muốn
cắn người phụ nữ làm đôi thì hàm con cá mập phải nặng thế này này, - Meadows dang
tay ra một khoảng chừng ba bộ, - mà loài cá mập duy nhất có hàm như thế và tấn
công con người là cá mập trắng lớn. Chúng còn được gọi bằng tên khác nữa.
- Còn tên khác nữa? - Brody đã bắt đầu mất hứng
thú. - Tên gì?