Con Đường Mây Trắng - Chương 1 - Phần 3
TU HỌC VÀ CÁC NGHI LỄ
Dưới sự dẫn dắt tốt bụng của Katschenla tôi sớm ý
thức nhiều điều nhỏ bé mà ngày trước tôi không mấy quan tâm hay cho chúng có ý
nghĩa gì, những điều rất hữu ích để nâng tâm thức lên một mức độ cao hơn, nhờ
đưa những hành động và thái độ thường nhật nhất vào trong sự tu học và thiền
định.
Tôi học cách cầm một cuốn kinh, kính trọng đưa
lên trán trước khi mở bọc lấy ra - cần nhớ rằng trong đó là ngôn từ của các bậc
giác ngộ - làm sao cho các tờ kinh không bị lộn xộn [7] và mỗi một âm phải được xem
là một chú nên một tờ kinh hư hỏng, không đọc được hay vô ích cũng không được
vứt bừa bãi để cho người hay thú có thể đạp lên. Vì lý do này mà phía ngoài đền
thường có một bệ thờ để cất chứa những tờ kinh hư hỏng hay dư thừa và các đồ
vật cúng dường hết dùng tới.
[7] Đó là điều dễ xảy ra vì các
tờ không đóng lại thành tập và vì những trang theo nhau của một tờ được in hay
viết ngược lại, nên qua mỗi trang, người ta phải quay ngược tờ giấy (TG).
Tôi học cách đi đứng trong tu viện, trước hết là
hướng đi, đó là hướng của thiên thể quay xung quanh mặt trời - điều đó có nghĩa
luôn luôn ta phải thấy đức Phật hiện diện, Ngài là mặt trời tâm linh và kẻ giác
ngộ của nhân loại, được cung kính bằng cách đi vòng quanh theo chiều kim đồng
hồ.
Ngay cả khi qua sân trước đền để đến tòa nhà
chính nằm bên trái, tôi cũng phải đi toàn vòng bên mặt của đền. Như thế tôi đi
qua một dọc những bánh xe đồng, trên đó có khắc sáu âm thần chú OM MANI PADME
HUM và bên trong chứa những cuộn làm bằng giấy Tây Tạng rất bền, trên đó câu
thần chú này được chép hàng trăm ngàn lần.
Cũng như đã nhắc khi nói về các hình tượng đất
sét thì sự hình thành các cuộn giấy này là một nghi lễ thiêng liêng, trong đó
năng lực tâm linh được tập hợp và vận động, chúng sẽ mang lại lợi ích cho những
ai có tâm sẵn sàng đón lấy. Khi đi ngang, chỉ cần đụng nhẹ thì bánh xe đã quay,
tôi nhắc lại trong tâm câu thần chú mà Katschenla đã chỉ; vì không có người Tây
Tạng nào thực sự quan tâm đến tôn giáo của mình và có chút hiểu biết sâu sắc lại có thể ngây
thơ tin rằng một hành động hoàn toàn cơ giới có thể mang lại lợi ích tâm linh
cho họ hay cho ai khác, hay nghĩ rằng quay bánh xe một cái là hàng ngàn lời cầu
nguyện lên tới trời xanh.
Người Tây Tạng không có ý muốn “đánh lừa thần
thánh” bằng cách cầu nguyện để kéo các Ngài về phía mình; cũng như họ không
muốn trốn tránh khổ nhọc hay trách nhiệm về việc làm của mình.
Khi một nông dân Tây Tạng đem bánh xe cầu nguyện
(mani-tschor-khor) đến một suối nước hay kinh lạch tưới tiêu cho ruộng đồng
mình, là muốn ban phép cho nước và cho những ai ăn thực phẩm của mình làm ra.
Thế nhưng, thêm một điều là âm thanh tiếng chuông khi quay bánh xe đó sinh ra,
sẽ đánh thức thần chú đầy phước hạnh nằm sẵn trong tâm người.
Nguồn gốc của mani-tschor-khor là gì? “Quay bánh
xe pháp” (chuyển pháp luân) là một ẩn dụ mà bất cứ Phật tử nào cũng biết và có
nghĩa là “đưa vào vận hành các sức mạnh của qui luật vũ trụ và đạo lý”. Khi đưa
tschor-khor vào vận hành, anh ta lập lại hành động tâm linh của Phật cách đây
2500 năm, đã “quay bánh xe Pháp”. Hành động này do một vị giác ngộ làm chưa đủ
- mỗi ai muốn giác ngộ cũng phải tự mình làm một cách sáng tạo và thực hiện
trong thâm tâm mình.
Ta có thể hiểu ý nghĩa sâu xa và sự song hành
trong vũ trụ của biểu hiện này khi nhớ rằng toàn bộ vũ trụ được xây dựng trên
vận động quay: các vì sao và hành tinh quay quanh trục của chính mình, các
thiên thể quay xung quanh mặt trời hay các điện tử quay quanh hạt nhân nguyên
tử. Nếu một đy-na-mô quay quanh mà phát ra điện lực [8] và khi sự quay của tâm con
người quanh một đối tượng ý thức hay một vấn đề sinh ra một tình trạng chú tâm,
tình trạng đó có thể phát minh những điên đảo lộn thế giới hay dẫn đến một mức
độ ý thức cao hơn, thâm chí đến sự giác ngộ hoàn toàn thì có gì đáng ngạc nhiên
khi người Tây Tạng tin rằng các năng lực cao đẹp được tập trung lên trong lúc
hình thành một mani-tschor-khor sẽ bám giữ trong thể vật chất của vật đó, theo
một cách nào đó, được động viên và trao truyền lại cho ai quay nó?
[8] Một hiện tượng không lý giải
được cũng như bản chất của điện, hầu như không phải chỉ là một hiện tượng vật
lý mà đường như một năng lực sống động, đóng một vai trò quan trọng trong các
thể hữu cơ và vận hành của trí nào (TG).
Tất cả những ý nghĩ đó tràn ngập tâm tôi khi hàng
ngày tôi đi vòng quanh đền và tu viện. Mặc dù tu viện cách nhà dân vùng Ghoom
không hơn một dặm, nhưng ở đây dường như thuộc về một thế giới khác. Giữa làng
và tu viện là một ngọn đồi dốc có nhiều cột cúng đường sơn trắng và một vườn
cây với nhiều phướn trắng bao quanh. Một cột phướn mang cờ trắng cao khoảng tám
mét, mang trên đỉnh biểu hiện của mặt trời, mặt trăng, lửa, có khi là hình kiếm
trí tuệ hay chĩa ba. Những lá cờ trắng mang chú nguyện hay dấu hiệu phúc lạc
dài khoảng ba phần tư mét, nằm suốt dọc cột cờ, chỉ trừ một mét rưỡi cuối cột
là không. Mỗi một lá cờ này do một cá nhân cúng dường hay một gia đình qui y
với tu viện. Cờ biểu hiện ân phước cũng như nhắc nhớ chính pháp cho người từ xa
đến tu viện hay những người sống quanh đó.
Trong mùa mưa thì đỉnh núi cao khoảng hai ngàn
năm trăm mét, mà trên đó tu viện này được xây dựng, hầu như suốt ngày bị một
đám mây khổng lồ bao phủ, nên buổi trưa mà vẫn phải thắp đèn trong diện, bên
ngoài thì sương mù che kín. Toàn bộ khu vực dường như trôi bềnh bồng trong mây,
bị gió thổi qua vô số lá cờ trắng xung quanh điện và quanh các tháp trên núi.
Thế nhưng toàn thể không gian và ngay cả các vật thể chìm đắm trong sương mù
không hề tạo ra cảm giác tuyệt vọng mà chỉ tăng thêm phần bí ẩn của khu vực và
cho một cảm giác an tâm, vững tin và yên lành, một tâm thức an lạc, sống xa rời
tất cả cái hối hả tất bậc của thế nhân.
Khi đi vòng quanh ngọn núi kỳ diệu đầy mây mù
này, tôi thường thấy đường như các tòa nhà vừa mới hiện thân trước mắt và chúng
không có thực tính như tư tưởng luôn đổi thay của tôi; còn bản thân tôi thì
hình như vô hình với người khác, như một thần thức đã thoát khỏi thân. Xung
quanh tôi hình như có một cõi sống siêu nhiên và khung cảnh tĩnh lặng chỉ làm
tăng lên những tiếng động kỳ lạ, nó vang trong không khí, khi lên khi xuống.
Chưa bao giờ tôi nghe tiếng động này: nó sinh ra từ những ngọn phướn dài và
mỏng rung trong chiều gió thổi lên liên tục từ bình nguyên Ấn Độ. (Đó chính là
luồng khí ấm và ẩm dâng lên, gặp luồng gió lạnh từ Himalaya mà sinh ra mây mù
liên miên trên đỉnh núi này). Trộn lẫn với tiếng động kỳ lạ này là tiếng chuông
bạc của mani-khor-lo nằm trong một tòa nhà nhỏ bên cạnh ngôi đền chính, do một
ông già mù quay, ông vừa quay vừa lầm bầm đọc thần chú.
Cao hơn một chút có một cái đền nhỏ, cứ theo giờ
nhất định trong ngày, nó lại phát ra một thứ tiếng rất trầm ngâm của lễ nghi
tụng niệm. Bị tiết điệu lôi kéo mà thỉnh thoảng có nghe tiếng kim loại chạm nhau, tôi leo lên đến đền và nghe tiếng
tụng của một tu sĩ, rõ là ông đang tụng niệm hàng ngày. Sau đó vì sợ phiền tôi
vội rút lui. Mấy ngày sau tôi mới có dịp xin ông được thăm nơi chốn thiêng
liêng này, nơi này khác với ngôi đền chính là mọi người không được bước vào.
Tôi thấy ngay lý do. Ngôi đền nhỏ này chứa đầy
các vị thần dữ tợn, hiện thân của năng lượng hoại diệt và thay đổi, các vị này
hiện ra đáng sợ cho những ai bám víu vào vật thể thế gian và danh sắc của
chúng, còn đối với ai đã hiểu tự tính của sự vật thì đó là năng lượng của giải
thoát khỏi ngục tù, đại diện cho sự chiến thắng của tự thân - đó là sự chuyển
hóa thoát khỏi cái vô minh tối tăm và vòng vây của cái Ngã. Các vị đó là hiện
thân của tri kiến cao tột, nó như một tia chớp hủy diệt tất cả những gì đã ngăn
cản ta chứng nghiệm một thực tại vượt trên tư duy khái niệm, như đã xảy ra một
kẻ tầm đạo ở Sais, người vì tò mồ đã lột khăn che mặt của một pho tượng Isis:
“Sự phẫn nội sâu xa đã chôn vùi y dưới hố sâu”.
Đây là lý do tại sao nhiều pho tượng của các vị
thần phẫn nộ (một dạng của thực tại) trong các đền riêng biệt lại che mặt và
chỉ những kẻ đã quán đỉnh rồi mới được vào; vì chỉ với họ thì lực lượng này hay
dạng này của thực tại cũng chính là biểu hiện của giác ngộ như những hiện thân
từ bi khác của Phật và Bồ-tát - trong tự tính sâu xa nhất - thì hai dạng này
quả là một. Qui luật của vũ trụ (Pháp) thì hiền hòa và hỗ trợ cho những ai chấp
nhận nó, nhưng lại dữ tợn cho những ai đi ngược lại và phủ nhận nó. Sức mạnh
của ánh sáng hay của giải thoát, sức mạnh đưa ta đến giác ngộ, hiện ra với kẻ
chống lại ánh sáng và thực tại trong dạng đáng sợ: và vì thế mà những dạng này
được gọi là “hộ pháp” và được người đã quán đỉnh, người đã hiểu ý nghĩa ẩn mật
của chúng, gọi là “thần bảo hộ” (yidam).
Thêm một điều bí ẩn nữa cho tôi phải tìm hiểu. Đó
là một tòa nhà có dạng như một ngôi đền, lớn hơn ngôi đền của các thần bảo hộ
nhưng lại nhỏ hơn mọi căn nhà khác của tu viện. Nó có hình vuông, mái sơn vàng
con lên theo kiểu Trung Hoa và có một mái hiên đóng kín, cột che kín, thành ra
không thể nhìn vào được. Cửa vào duy nhất là cửa sau nhưng luôn luôn khóa chặt.
Điều làm tôi tò mò và thấy kỳ diệu là căn nhà này
lại thông với ngôi đền chính nằm thấp hơn bằng một tràng hoa của những hạt
giống gần như trong suốt, trắng bạc của một giống cây mà tôi không biết đến.
Khi hỏi Katschenla, ông trả lời tôi bằng một giọng đầy kính sợ và bí ẩn rằng
nơi đó có vị “Đại Lạt ma”, người đó là một vị Phật rồi, đang thiền định. Ông
nói giọng thì thào ra chiều như đang ở gần vị “Đại lạt ma” đó và mặc dầu không
hỏi được vị đó là ai và tất cả mọi chuyện thế nào nhưng tôi bắt đầu suy nghĩ:
phải chăng không khí đầy năng lượng này của tu viện và sự chuyển hóa tâm thức
trong tôi mà tôi đã thấy, phải chăng những điều đó có mối liên hệ gì với sự
hiện diện của vị lạt ma này? Sự thực là Katschenla - mà lòng tốt và sự thành
thật của ông đã gây ấn tượng sâu sắc nơi tôi, - đã nói về vị này một cách kính
cẩn, làm tôi ao ước trở thành đệ tử của vị đó. Khi nói với Katschenla điều đó, ông
đồng ý ngay và hứa sẽ báo cho sư trưởng điều này để sư trưởng tùy cơ mà báo lại
cho vị lạt ma.
VỊ ĐẠO SƯ XUẤT HIỆN
Một hai tuần trôi qua. Tôi không rõ vị sư trưởng
có báo gì cho vị lạt ma không. Thế nhưng ngày nọ - khi thiền định trở về từ một
hang động phía bên kia đỉnh núi, dưới Tschorten - thì tại chỗ của tôi trong đền
có một quả xoài thuộc giống ngon và quí, giống này chỉ mọc ở bình nguyên Ấn Độ
và mùa này bắt đầu chín. Tôi không tin mắt mình khi nhìn thứ trái cây sang
trọng này và càng không thể hiểu làm sao nó đã đến được đay. Katschenla đến
thăm tôi, mặt hớn hở, chỉ tay hướng nhà thiền định nọ và nói đó là tặng vật của
vị Đại lạt ma. Chưa bao giờ trong đời tôi nhận được quà tặng quí báu như thế,
vì nó báo cho tôi rằng mong ước của tôi được chấp nhận và tôi trở thành học trò
(Tschela) do vị đạo sư tâm linh vĩ đại này đích thân dạy dỗ.
Katschenla chung vui toàn vẹn với tôi và tôi
quyết chí đợi vị đạo sư, dù kéo dài bao lâu cũng mặc, cho đến khi ông chấm dứt
thiền định mà tôi nghe nói có thể kéo dài hàng tuần, hàng tháng. Nhưng tôi tin
tưởng đáng công đợi, dù cho đời suốt đời để tìm ra được vị thầy đích thực, tức
là người không phải chỉ truyền cho ta tri kiến suy luận mà là người thầy, dựa
trên chính sự chứng thực của mình mà đánh thức được sức mạnh tâm linh của trò
và dẫn trò đến sự viên mãn. Từ “Guru” thường được thầy dịch là “thầy”, nhưng
trong thực tế không có từ nào tương đương trong các ngôn ngữ châu Âu; vì “Guru”
cao hơn hẳn “thầy” trong nghĩa rộng của từ này. Một vị thầy cho kiến thức, còn
một Guru cho hẳn con người mình. Giáo pháp sâu nhất của một Guru không phải là
chữ nghĩa của ông mà là điều không nói ra được, vì ông vượt lên phạm vi của
ngôn ngữ. Vị Đạo Sư [9] là niềm cảm hứng, nói theo nghĩa đen, có nghĩa ông là con người đã cho ta
tâm thức sinh động của bản thân mình.
[9]
Tiếng Hindu có nghĩa là đáng kính. Từ đây Guru được dịch là đạo sư (ND).
Tương tự như thế thì từ “Tschela” có nghĩa là cao
hơn “trò” trong nghĩa thông thường, tức là người chỉ học một khóa học. Đó là
người đệ tử, nó có một mối liên hệ tâm linh sâu kín với đạo sư của mình - một
mối liên hệ được thiết lập bằng lễ điểm đạo, trong đó một sự trao truyền sức mạnh tâm linh sẽ diễn
ra. Sự trao truyền đó hiện thân bằng một câu thần chú và người đệ tử bất cứ lúc
nào cũng được gọi đến, nhờ thế mà họ giữ được một mối liên hệ thường xuyên với
đạo sư của mình.
Sức mạnh tâm linh nói ở đây không phải là lực
lượng vượt trên ý thức của trò mà là khả năng của đạo sư cho phép trò chia sẻ
chứng thực của mình, sự chứng thực chỉ có trong một tình trạng ý thức và chứng
ngộ cao hơn thông thường. Nhờ thế mà trò được trải qua hoặc có được một tri
kiến chớp nhoáng về tự tính của mục đích muốn tới, để cho trò không chỉ hướng
đến một ý niệm mơ hồ mà một thực tại đã thấy và đã chứng thực. Một khả năng như
thế chỉ đạt được sau một đời chuyên tâm thiền định và cứ sau mỗi thời kỳ hoàn
toàn độc cư và đại định thì khả năng đó lại tăng trưởng lên, như nước dồn lại trong hồ sẽ tích thêm năng lượng.
Điều này rất rõ đối với tôi trong ngày mà vị Đại
lạt ma - hồi đó tên của ông chưa mang ý nghĩa gì với tôi, nhưng ông không ai
khác hơn là Tomo Gésché Rimpotsché - lần đầu rời ngôi đền sau nhiều tuần thiền
định. Từ sáng sớm tôi đã thấy hoạt động bất thường của tu viện, hầu như số
người tăng gấp đôi gấp ba. Thật là bí ẩn khi nhiều tu sĩ từ đâu lại nhưng xem
ra họ thuộc về tu viện mà không sống trong các bức tường tại đây. Ngay cả những
người tôi biết trước nhưng hôm nay xem ra thay đổi, không phải chỉ vì họ mặc áo
quần đẹp nhất, mà vì họ hết sức sạch sẽ, tắm rửa nghiêm túc.
Mọi người ngồi kín các hàng ghế dài trong đền, dù
đã mang thêm ghế vào. Các nồi nấu trà và xúp sôi sùng sục trong bếp bên cạnh
đền, chuẩn bị được đưa vào trong lúc nghỉ. Chính điện được chiếu sáng bằng hàng
ngàn ngọn đèn dầu và từng bó nhang cháy bốc lên từng đám mây thơm lừng và cho
một đám khí xanh trên đầu các bức tượng.
Thình lình có âm thanh tù và trầm như tiếng sấm
xen lẫn với tiếng xạp xỏa và tiếng trống chậm rãi. Hai cánh cửa đền mở rộng và
Tomo Géché Rimpotsché bước vào, hai bên là hai lạt ma áo quần trang nghiêm, đầu
đội mũ cao. Thân choàng một khăn lụa vàng (áo choàng truyền thống của tu sĩ
Phật giáo), người ta trải dưới chân ông một tấm nệm cầu nguyện. Ông chắp hai
tay cao hẳn trên đầu để cúi chào các bậc giác ngộ, quì xuống nệm, trán chạm
đất. Ông lặp lại nghi lễ này ba lần trong lúc toàn bộ các tu sĩ tụng niệm.
Tiếng tụng niệm ngân nga trầm lắng tạo nên âm thanh đều đặn lẫn trong những
tiếng xập xỏa thúc giục và xuyên khắp qua hai cửa vang vọng từ bên ngoài vào.
Sau khi vị đạo sư tế lễ xong, người ta đội cho
ông một cái mũ vàng, đầu nhọn, tượng trưng cho đạo vị cao thấp. Rồi ông đi giữa
những hàng ghế vào ngồi lên tòa, cao hơn một chút so với vị sư trưởng, người
đại diện cho ông khi ông vắng mặt. Khi ông đi giữa điện, một sự yên lặng sâu xa
ngự trị trong tất cả mọi người. Tất cả ngồi bất động và hầu như bị tê dại bởi
sự có mặt huyền bí của một con người, người đã truyền cho cả ngôi đền một sức
mạnh tập trung của tâm thức thanh tịnh sau nhiều tuần nhập định. Tôi bắt đầu
hiểu ngộ điều Katschenla nói, rằng vị Đại lạt ma là một với các vị giác ngộ,
chư Phật.
Khi vị đạo sư ngồi trên tòa thì vị sư trưởng bắt đầu tụng niệm với một giọng rất trầm,
trầm đến nỗi ta phải hỏi đây là tiếng từ lồng ngực con người hay từ tầng sâu của trái đất. Sau đó là tiếng tụng của tu sĩ và
các tiểu tăng; tiếng cao của người trẻ, tiếng thấp của người già và tiếng rất
trầm xuyên suốt của vị sư trưởng làm thành một tiết điệu hoàn hảo. Sau đó âm
thanh tụng niệm ngày càng cao, điểm thêm tiếng trống, cao dần rồi ngưng bặt để
chỉ còn nghe thấy tiếng của sư trưởng. Sau đó toàn bộ tu sĩ lại tụng niệm, âm
thanh đạt tới một đỉnh cao khác, lẫn với tiếng kim khí lao xao và tiếng trống
trầm ấm, lại dứt hẳn để chỉ nghe tiếng của sư trưởng. Tiết điệu thay đổi lên
xuống này, khi thì im lặng sâu lắng, khi thì dồn dập cao tột, trong đó cái im
lặng mở đường cho cái dồn dập, cái vô thanh là tổng số mọi âm thanh, làm cho
người có mặt liên tục bị một áp lực sống động, ở trong một trạng thái của tâm
linh và xả bỏ. Thế nên sau đó bài giảng và phép lành của Tomo Gésché Rimpotsché
hầu như gặp một vùng đất tốt.
NHẠC LỄ TÂY TẠNG
Loại nhạc lễ sâu lắng, đầy tác dụng tâm linh của
Tây Tạng, là âm thanh nền của các buổi giảng đạo, không được xây dựng nên bởi
tiết tấu mà chủ yếu là nhịp điệu và tác dụng của các chủng âm - tôi dám nói là
của các chủng âm nguyên thủy [10] mà mỗi âm đó được một nhạc cụ chuyên biệt trình bày. Các nhạc cụ đó không
hề bắt chước các biến hiện của giọng hát hay xúc cảm của con người mà đại diện
cho cách diễn tả trọn vẹn của những hiện tượng cơ bản của tự nhiên, trong đó
thì giọng người chỉ là một trong nhiều loại dao động, các dao động đó làm nên
những bản hào ca tạo thành âm điệu của vũ trụ.
[10] Archetypische Lautelemente.
Bản hòa ca này không tuân thủ qui luật của phép
hòa ca theo nhạc lý phương Tây, thế nhưng nó mang lại một hiệu ứng tổng thể,
hiệu ứng này không phải không có nhịp điệu, vì cái tất cả thực ra cũng có phép
tắc nhất định và cho thấy một sự song song giữa các yếu tố âm thanh ở các mức
độ khác nhau.
Mặc dù bị âm nhạc tác động sâu sắc, nhưng tôi
không đủ trình độ để có một phân tích chuyên môn hay một mô tả khách quan về kỹ
thuật cả âm nhạc Tây Tạng. Thế nên tôi chỉ có thể nói về quan sát và phản ứng
cảm tính của mình bằng những câu đơn giản. Điều đáng nói là tính cách sơ lược
của các tường trình ngắn ngủi về nhạc Tây Tạng mà tôi đọc thấy trong các sách
chỉ dẫn du lịch làm tôi tin rằng, hoặc là ngôn ngữ âm nhạc phương Tây không phù
hợp để diễn tả tính cách độc đáo của nhạc Tây Tạng, hoặc là những người muốn
trình bày nó không đủ sức nắm lấy cái thần của nó.
Muốn làm được điều này, người ta phải quen với
thực tế tôn giáo và tự nhiên tại nơi mà nền âm nhạc này lớn lên. Người ta phải
sống lâu tại đây, phải tham dự vào cuộc sống tinh thần và cảm xúc, mà âm nhạc
là cách diễn tả trực tiếp.
Phật giáo Tây Tạng xem con người không phải là
một thể sống riêng lẻ, mà nằm trong mối liên hệ với cái nền vũ trụ. Thế nên, âm
nhạc tế lễ của Tây Tạng không nói đến những cảm xúc nhất thời của một cá thể mà
thể tính vô thủy vô chung, miên viễn của đời sống vũ trụ, trong đó cái vui buồn
riêng tư của ta không đóng vai trò gì. Với thể tính đó, ta gặp lại suối nguồn
của thực tại trong tự tính sâu kín nhất của ta. Đây không phải chỉ là cái cốt
yếu của thiền định Phật giáo mà cũng là của âm nhạc tế lễ Tây Tạng, nó xây dựng
trên sự rung động sâu xa nhất mà một nhạc cụ hay giọng người đủ sức diễn tả:
những âm thanh hầu như tiếng sấm động - chủng âm thiêng liêng của tự nhiên, mà
sự dao động của nó đại diện cho nguồn sống của hết thảy mọi vật trong vũ trụ.
Chúng tạo ra cái nền móng mà trên đó âm thanh cao hơn hay những tiếng đập của
nhạc cụ bằng gỗ mới trổi dậy, như dạng hình của loài hữu tình xuất hiện từ các
năng lực cơ bản của tự nhiên - người ta ý thức những năng lực đó không nơi đâu
mạnh bằng các dãy núi hùng vĩ và các cao nguyên ngút ngàn và cô tịch ở Tây
Tạng.
Như giọng trầm của người chỉ huy đã cho đoàn nhạc
công nền móng và mở đầu bài giảng, rồi cuối mỗi đoạn lại trở về với giọng trầm;
thì tương tự thế, chiếc kèn tù-và bằng đồng dài bốn mét là gốc gác, là điểm
xuất phát của dàn giao hưởng. Loại kèn luôn luôn được thổi từng cặp, để cho
chiếc này vừa dứt thì chiếc kia thổi lên. Và như thế mà ta luôn luôn có một
tiếng kèn liên tục, có lên có xuống, trong sức mạnh và chiều sâu của nó nghe
như một đại dương của âm thanh tràn trong không gian. Và trên mặt đại dương đó
mà chủng âm của nó là OM, gốc của mọi âm thiêng liêng, thì gió đã tạo ra đời
sống cá thể bằng cách làm thành vô số những sóng lớn sóng nhỏ, như những âm
thanh của nhạc cụ gỗ, chúng sinh động và đầy tiết điệu.
Giọng trầm mà vị sư trưởng bắt đầu và làm nền cho
buổi lễ không gì khác hơn chính là sự nhắc lại của chủng âm thần chú này, vì
buổi giảng đạo chủ yếu (dù không phải mọi lúc) có tính cách chú nguyện, nhất là
trong phần đầu và phần cuối của mỗi đoạn. Tất cả những câu chú nguyện quan
trọng của phần tụng niệm được sự tham gia của chuông và trống nhỏ.
Ngược với tiếng kèn không nhiều thì ít có tính
tĩnh tại thì tiếng đập và tiếng xập xỏa đại diện cho yếu tố động của dàn nhạc.
Tiết điệu dĩ nhiên phải thay đổi theo từng đoạn tụng niệm, nhưng - đây là điều
quan trọng về tính chất âm nhạc và cảm xúc, vì là một cảm giác của sự giải
thoát sinh ra từ áp lực lúc đầu còn chậm về sau nhanh dần - đến đoạn cuối cùng
của buổi lễ thì tiết điệu nhạc nhanh dần - đến đoạn cuối của buổi lễ thì tiết
điệu nhạc nhanh dần lên, đến lúc nó trổ vào đoạn chung cuộc. Nơi đó thì tiếng
xập xỏa mang lại một
âm thanh kim loại, quay cuồng, thắng lợi, vươn cao hơn tất cả tiếng đập chạy ầm
ầm phía dưới và chấm dứt bằng một tiếng xập xỏa vang dội. Sau đó lại bắt đầu
một chu trình mới, chậm rãi của một đoạn tế lễ khác.
Khi tiếng kèn hay giọng trầm của con người bắt
chước chủng âm vũ trụ, trong đó ta chứng cái vô cùng của không gian thì tiếng
trống đại biểu cho tính hữu hạn của cuộc sống và vận động, chúng tuân thủ
nguyên lý cao nhất của mọi sinh cơ, tuân thủ chu trình nội tại của chúng, đó là
chu trình sáng tạo và phân hủy, phân tích và tổng hợp, hóa hiện và thu hồi, sinh
thành và hoại diệt; chúng đạt đỉnh cao trong hữu hiện và giải thoát.
Nếu tiết điệu trong lễ nhạc Tây Tạng đóng vai trò
quan trọng của âm hưởng vô thường trong đời sống cá thể thì nhịp điệu của âm
nhạc lại nói lên cơ cấu và ý nghĩa đích thực của nó. Với tiếng trống hay tiếng
đập, người Tây Tạng (hẳn là cả người phương Đông nói chung) nói lên cảm xúc
hoàn toàn khác với ở phương Tây, là nơi không thấy đó là một nhạc cụ cơ bản hay
độc lập. Trong thời đầu của văn hóa Ấn Độ, ý nghĩa của tiếng trống có thể được
thấy qua một ẩn dụ quan trong của Phật, trong đó Ngài so sánh qui luật trường
cửu của vũ trụ như nhịp điệu của tiếng trống, đó là lời đầu tiên sau khi giác
ngộ, Ngài nói về “tiếng
trống bất tử” (amata dundubhin) vang lên cho toàn thế giới.
Chính vì không theo dõi được hết tất cả chi tiết
của buổi tế lễ dưới sự hướng dẫn của Tomo Géshé Rimpotsché, nên sáng hôm đó tôi
tập trung nghe tiếng ca nhạc và lưu ý tác động của buổi lễ đó làm tôi có khả
năng cảm thụ lớn nhất. Trong những tuần trước dù đã tham gia nhiều buổi lễ
nhưng chưa bao giờ tôi được sống trong một tình trạng hoàn hảo và hòa điệu như
thế. Tất cả những người tham dự ngày hôm đó hầu như tràn đầy sự hiện diện của
một tâm thức cao hơn – như tôi cảm nhận, là thống nhất trong ý thức bao trùm
tất cả của một vị đạo sư, để cho tất cả hành động của họ đều hòa hợp với nhau,
tụng kinh hay niệm chú, hầu như tất cả đã tan chảy, hòa chung vào một thân duy
nhất.