Ba Điều Bí Ẩn (Tập 2) - Chương 09 - 10

Chương IX

Với con
mắt nhà nghề, Japp nhận xét:

- Hắn sụp
đổ quá nhanh, điều này hơi lạ.

Họ đang
ngồi trên xe đi ngược đường Brompton. Poirot lơ đãng đáp:

- Hắn
biết mình đã chết cháy.

- Chúng
mình có nhiều cớ để buộc tội hắn. - Japp nói. - Hắn có hai, ba căn cước khác
nhau, xưa đã từng gian lận ngân phiếu, và một vụ giả danh là đại tá Bathe đến
khách sạn Ritz lừa đảo một loạt doanh nhân. Hiện nay ta đã giữ hắn về tội danh
này… cho đến khi vụ bà Allen được làm rõ. Ông Poirot.. tại sao ông muốn đưa tôi
về nông thôn?

- Mỗi vụ
việc phải được làm hoàn toàn sáng tỏ. Tôi đang đi tìm bí mật của vấn đề mà ông
đã gợi ra: bí mật của chiếc hòm con bị mất.

- Nhưng
chiếc hòm đó có mất đâu.

- Hãy đợi
đấy, ông bạn.

Xe đi vào
khu phố Mews. Trước cửa nhà số 14, Jane Plenderleith trong trang phục người đi
đánh gôn, từ chiếc Austin bước xuống. Cô nhìn hai người, và lấy chìa khóa mở
cửa.

- Mời hai
ông vào.

Cô đi
trước, Japp bước theo vào phòng chung.

Poirot
đứng lại ngoài phòng chờ, phàn nàn to:

- Thật
bất tiện… khó cởi áo quá.

Sau đó,
Poirot đi vào không có áo badơxuy, song Japp thầm mỉm cười vì đã nghe thấy
tiếng động khẽ của cánh cửa tủ khô có người mở. Japp liếc nhìn Poirot dò hỏi,
Poirot đáp lại bằng một cái gật đầu khẽ.

- Chúng
tôi không làm phiền cô lâu. - Japp nói. - Chúng tôi đến chỉ để hỏi tên ông luật
gia trông nom công việc của bà Allen.

- Luật
gia? Nhưng tôi cũng không biết chị ấy có hay không?

- Nhưng
khi bà ấy cùng cô thuê căn nhà này, phải có người nào làm giúp giấy tờ chứ?

- Không,
làm gì có, vì chính tôi đứng tên thuê. Barbara trả tôi nửa tiền thuê. Thế là
xong, không có gì sai luật.

- Vâng,
nếu vậy chúng tôi không còn việc gì nữa.

- Rất
tiếc không giúp gì được các ông. - Jane Plenderleith lịch sự.

Japp vừa
đi ra cửa, vừa nói:

- Không
quan trọng. Cô vừa đi chơi gôn về?

Jane hơi
đỏ mặt:

- Vâng.
Các ông có thể cho là tôi vô tâm, nhưng sự thực là tôi không thể chịu cái không
khí của nhà này. Phải ra ngoài, làm cái gì thật mệt, không thì ngẹt thở mất.

Poirot
vội nói:

- Vâng,
chúng tôi thông cảm, thật dễ hiểu, rất tự nhiên. Ngồi ru rú trong nhà này nghĩ
vẫn vơ thì khổ thật… Cô là thành viên của một câu lạc bộ?

- Vâng,
tôi chơi gôn ở Wentworth. Hôm nay trời rất đẹp; tuy nhiên lúc này cây cối đã
bắt đầu trụi lá, chứ tuần trước còn rất xanh tươi.

Xin chào
cô Plenderleith, Japp trịnh trọng nói:

- Tôi sẽ
báo tin cô biết khi có gì cụ thể. À, chúng tôi đã bắt giam một kẻ tình nghi.

- Ai vậy?
- Jane hau háu nhìn hai người.

- Thiếu
tá Eustace.

Cô gái
nghiêng đầu, cúi xuống để nhóm lò.

Khi xe ra
khỏi khu phố Mews, Japp hỏi:

- Thế
nào?

Poirot
mỉm cười:

- Rất đơn
giản, lần này chìa khóa vẫn ở trên cửa.

- Và?

Poirot
lại mỉm cười:

- Các đồ
chơi gôn không còn trong tủ kho…

- Tất
nhiên. Dù sao thì cô gái đó không ngốc.

- Còn
thiếu gì không?

- Có
thiếu chiếc hòm con!

Xe chồm
lên dưới chân Japp:

- Quỷ tha
ma bắt! Tôi biết là có cái gì đó, nhưng là cái gì cơ chứ? Tôi đã khám cái hòm
rất kỹ.

- Tội
nghiệp ông bạn tôi… nhưng sự thật rất hiển nhiên.

Japp đưa
mắt nhìn, bực dọc:

- Chúng
ta đi đâu thế này?

Poirot
nhìn đồng hồ:

- Chưa
đến bốn giờ, tôi tin là ta sẽ tới Wentworth trước khi trời tối.

- Ông
nghĩ là cô ta đến đó thực?

- Có, vì
cô ấy không biết là ta có thể tìm hiểu. Tôi tin là cô ta đã đến đó.

- Thế thì
ta đến! Mặc dù tôi không cho chiếc hòm nhỏ có liên quan đến vụ án.

- Đúng
vậy, tôi hoàn toàn đồng ý… là nó không liên quan.

- Thế thì
tại sao?… Không, đừng nói gì cả! Với trật tự và phương pháp, rồi mọi việc sẽ
sáng tỏ! Hà! Trời hôm nay đẹp!

Xe đi
khỏe, hai người tới Câu lạc bộ Gôn Wentworth lúc bốn giờ rưỡi. Là ngày đi làm,
nên ở đây vắng người.

Poirot
đến thẳng người quản lý yêu cầu cho xin bộ đồ gôn của cô Plenderleith, viện cớ
hôm sau cô phải đi chơi ở sân gôn khác. Người quản lý đưa ra một bộ đồ có ghi
chữ J. P.

- Cảm ơn.
- Poirot nói.

Đi được
hai, ba bước, ông quay lại hỏi một cách tự nhiên:

- Cô ấy
có gửi ở đây một chiếc hòm nhỏ.

- Hôm nay
thì không, thưa ông. Có thể cô ấy để trên phòng.

- Hôm
nay, cô có tới đây?

- Ồ! Có,
tôi có thấy.

- Cô ấy
có gọi thằng bé xách gậy nào đi theo? Cô ấy để lạc đâu chiếc hòm, không nhớ ở
chỗ nào.

- Cô
Plenderleith không yêu cầu người xách gậy. Cô ấy vào đây, mua hai quả bóng, và
chỉ lấy hai gậy, tôi nhớ hình như cô có cầm chiếc hòm con.

Poirot
cảm ơn, và hai người đi vòng quanh khu nhà. Poirot dừng lại một lúc ngắm cảnh.

- Cảnh
trí đẹp không… Hàng thông sẫm màu và cái hồ! Phía cái hồ!

Japp tiếc
nhìn nhanh:

- A! Vậy
ra trong đầu ông đã có ý ấy?

Poirot
mỉm cười:

- Có thể
có người nào đã trông thấy. Ở địa vị của ông, tôi sẽ mở một cuộc điều tra nhỏ.

Chương X

Poirot
lui lại một chút để ngắm cách bài trí căn phòng. “Một ghế ở đây… Một ghế kia.
Được, rất tốt. Có tiếng chuông gọi cửa, chắc là Japp.”

Viên
thanh tra cảnh sát nhanh nhẹn bước vào.

- Ông nói
đúng! Tôi đã được thông tin: có người trông thấy một phụ nữ trẻ vứt cái gì đó
xuống hồ Wentworth. Mô tả con người, đúng là Jane Plenderleith. Chúng tôi đã
vớt vật đó lên không khó khăn, nó mắc vào đám lau sậy dưới hồ.

- Và vật
đó là?

- Là cái
hòm, còn gì nữa. Nhưng tại sao, khó hiểu quá. Trong đó chẳng có gì… cả mấy tờ
báo. Tại sao một người có vẻ lành mạnh như cô ta lại ném chiếc hòm đắt tiền
xuống đáy hồ? Ông có tìm ra được không? Cả đêm nay, tôi nghĩ mãi không ra.

- Ông
khỏi phải băn khoăn nhiều. Câu trả lời rồi sẽ đến. Có người bấm chuông kìa.

George,
người hầu hoàn hảo của Poirot, ra mở cửa và thông báo:

- Cô
Plenderleith.

Cô gái
vào với dáng bộ thoải mái thường lệ, chào hai người.

Poirot
nói:

- Tôi đã
mời cô tới, vậy cô hãy ngồi ghế này. Ông Japp, ông ngồi ghế kia, vì tôi có một
số tin tức thông báo.

Cô gái
ngồi xuống, lần lượt nhìn hai người, đặt mạnh chiếc mũ xuống bên cạnh, nói:

- Hừ!
Thiếu tá Eustace đã bị bắt.

- Tôi
đoán cô đọc tin đó trên báo buổi sáng?

- Phải.

Poirot
nói:

- Lúc
này, ông ấy bị buộc vì một tội khác không quan trọng, trong khi chờ đợi chúng
tôi tìm chứng cứ về vụ sát hại.

- Vậy
đúng đây là vụ ám sát? - Cô gái hỏi ngay.

- Phải,
đây là án mạng, sự huỷ hoại cố tình của người này với người khác.

Cô gái
hơi rùng mình:

- Ôi, ông
đừng nói nữa. Nghe ghê cả người.

- Vâng,
nhưng mà ghê thật chứ. - Ngừng một lát, ông nói tiếp. - Và bây giờ, tôi sẽ nói
cho cô biết tôi đã tìm ra sự thật bằng cách nào.

Cô gái
hết nhìn Poirot lại đến Japp. Ông này mỉm cười:

- Ông ấy
có những cách riêng của ông ấy, tôi phải chiều theo thôi, và chúng ta nên nghe
ông ấy nói gì.

Poirot
lên giọng:

- Như cô
đã biết, tôi cùng ông bạn đây đến hiện trường vụ án sáng ngày 6 tháng 11. Chúng
tôi vào phòng, nơi có xác bà Allen, và lập tức chú ý đến một số chi tiết rất có
ý nghĩa. Có những điều rất lạ trong phòng ấy, cô biết không?

- Ông cứ
nói.

- Trước
hết, là mùi khói thuốc là.

Japp nói
xen vào:

- Có lẽ
ông nói hơi quá đáng, tôi có ngửi thấy gì đâu.

Poirot
quay phắt lại:

- Thì
đúng thế. Ông không ngửi thấy gì, tôi cũng không, Đó là một điều lạ, nhất là
cửa ra vào, cửa sổ để đóng và trong cái gạt tàn có tới chục mẩu thuốc. Thế mà
không khí trong phòng hoàn toàn trong lành, thật bất thường.

- À, ra
ông muốn nói thế! - Japp thở dài, bất ngờ. - Quả là ông có những phương pháp
oái oăm để đi tới kết luận!

- Tôi nói
tiếp: điều thứ hai đập vào mắt tôi, là chiếc đồng hồ đeo tay người chết.

- Ừ, nó
có gì đặc biệt?

- Không
có gì đặc biệt, chỉ là nó đeo ở cổ tay phải, trong khi người ta thường đeo ở tay
trái.

Japp nhún
vai. Không để ông ta kịp nói, Poirot tiếp luôn:

- Vâng,
đúng như ông nghĩ, điều ấy không có ý nghĩa quyết định, vì có những người thích
đeo ở tay phải. Giờ, tôi mới nói đến một điều thực sự thú vị… Đó là cái bàn
giấy.

- Phải,
tôi đã đoán ra. - Japp nói.

- Thực sự
lạ kỳ… vì hai lí do. Thứ nhất, trên đó thiếu một thứ gì.

- Cái gì
thiếu? - Jane Plenderleith vồ lấy, hỏi ngay.

Poirot
quay về phía cô ta:

- Một tờ
giấy thấm, thưa cô. Trên cái lót tay chỉ có một tờ giấy trắng tinh.

Jane nhún
vai:

- Ôi, ông
Poirot, giấy bẩn rồi, người ta thường gỡ ra, vứt đi.

- Phải,
nhưng vứt đi đâu? Chỉ có vứt vào bồ rác, phải không? Nhưng trong bồ rác, không
thấy, tôi đã nhìn.

Jane Plenderleith có vẻ sốt ruột:

- Vì chắc chị ấy vứt từ hôm trước, còn tờ giấy
thấm hôm sau vẫn sạch vì Barbara không viết gì nữa.

- Không phải là trường hợp ấy, vì tối hôm đó bà
Allen đã ra trạm bưu điện bỏ thư, có người trông thấy. Vậy bà ấy có viết. Bà
không thể viết thư dưới nhà vì dưới đó không có bút mực, và chắc cũng không
sang viết ở phòng cô. Vậy thì cái tờ giấy thấm dùng để thấm mực đi đâu rồi?
Đành rằng có người vứt giấy vào lò sưởi để đốt chứ không ném vào bồ rác, nhưng
trong phòng bà Allen chỉ có lò bằng khí đốt. Mà hôm trước lò sưởi ở dưới nhà
chưa nhóm lửa, vì cô đã nói với chúng tôi rằng trong lò chỉ xếp củi sẵn, khi cô
về mới đánh diêm châm lửa.

Poirot ngừng một lát.

- Thật kỳ cục. Tôi đã nhìn tất cả các bồ rác,
thùng rác, mà không thấy tờ giấy thấm… và điều này theo tôi rất quan trọng. Cứ
như là người nào đã cố tình bỏ tờ giấy thấm ấy. Tại sao? Tại vì nó in vết chữ,
có thể đọc được nếu đem soi trước gương.

Một điều lạ nữa trên bàn giấy khiến tôi phải
chú ý là… ông Japp, ông nhớ các đồ vật bày trên đó không? Lót tay và lọ mực ở
giữa, hộp bút bên trái, lịch và bút lông ngỗng bên phải. A hà, ông không hiểu
sao? Chiếc bút lông ngỗng, tôi đã xem - chắc ông còn nhớ, đặt đó như chỉ để
trang trí, không sử dụng. Vậy thì? Ông vẫn không thấy? Tôi nói lại: lót tay ở
giữa, hộp bút bên trái, bên trái nhé, ông Japp. Bình thường thì hộp bút đặt bên
phải mới đúng, vừa tầm bàn tay phải?

A, ta
hiểu dần ra rồi, phải không? Hộp bút bên trái. Đồng hồ ở cổ tay phải. Tờ giấy
thấm bị lấy đi, và một thứ được để thêm vào trong phòng: chiếc gạt tàn đầy mẩu
thuốc!

Không khí
ở trong phòng là trong lành và mát. Đó là không khí của một phòng cửa sổ mở chứ
không đóng suốt đêm… và thế là toàn cảnh đã hiện ra trước mắt tôi.

Ông đứng
đối diện, nhìn thẳng cô Jane:

- Trong
cảnh ấy, tôi thấy cô, cô xuống tắc xi, trả tiền anh lái rồi nhảy bốn bậc lên
cầu thang, có thể vừa lên vừa gọi: “Barbara!” và cô mở cửa, thấy bạn cô chết
nằm dưới đất, tay cầm súng - bàn tay trái tất nhiên, vì bạn cô thuận tay trái -
và vì thế nên viên đạn mới bắn vào phía trái đầu. Bạn cô để lại cho cô một lá
thư nói rõ vì sao bà ấy tự tử. Tôi hình dung, đó phải là một bức thư hết sức
xúc động… Một phụ nữ trẻ, hiền lành và đau khổ, phải kết liễu cuộc đời vì không
chịu được áp lực đe dọa tống tiền.

Tôi nghĩ
ý đồ có thể nảy ra tức khắc trong óc cô. Cái chết này phải là tác phẩm của một
người đàn ông, hãy để hắn bị trừng phạt, trả giá cho hành động tội lỗi của hắn!
Cô liền lấy khẩu súng lau chùi rồi đặt lại vào bàn tay phải. Cô cầm lá thư lột
bỏ tờ giấy thấm trên đó có hằn nét chữ. Cô xuống nhà, nhóm lò sưởi, vứt tất cả
vào lửa. Rồi cô mang chiếc gạt tàn lên để tạo ra cảm giác hai người ngồi nói
chuyện với nhau suốt tối, cô cũng mang theo một mảnh cúc tay áo vỡ mà cô nhặt
được dưới đất - thật may mà tìm thấy nó, nó càng là một chứng cớ thuyết phục.
Tiếp đó, cô đóng cửa sổ, và khóa cửa ra vào, vì không thể để mọi người biết là
cô đã vào phòng. Cảnh sát phải chứng kiến mọi thứ như cô đã bố trí, vì vậy cô
gọi điện thẳng cho nhà chức trách chứ không hô hoán hàng xóm như nhiều người
thường làm.

Và mọi
việc diễn ra suôn sẻ. Cô đã thủ vai của mình một cách bản lĩnh, chủ động, thoạt
đầu không chịu nói gì, rồi khéo léo tỏ ý nghi ngờ không phải là tự tử. Về sau,
cô lại lái chúng tôi theo hướng truy tìm thiếu tá Eustace…

Vâng,
thưa cô, hết sức khôn khéo… Một tội ác thần tình… Vì, thực tế, đây là âm mưu
sát hại thiếu tá Eustace.

Jane Plenderleith vụt đứng dậy:

- Đây không phải là tội ác, mà là lập lại công
lý. Tên ấy đã hành hạ Barbara đến khốn khổ, đã dồn chị ấy đến chỗ chết. Chị ấy
hiền dịu thế, yếu đuối thế, đã bị một gã đàn ông quyến rũ ở Ấn Độ lúc chị còn
rất trẻ. Chị mới mười bảy, gã kia lớn tuổi hơn rất nhiều, lại đã có vợ. Đẻ ra
một đứa con, lẽ ra nên gửi lại trại trẻ, nhưng chị không muốn, nên phải lánh đi
ở một nước thật xa, rồi mới quay trở lại, lấy tên là bà Allen.

Sau này đứa bé chết. Chị ấy trở về đây rồi phải
lòng Charles… cái anh chàng kiêu ngạo, huyênh hoang như thùng rỗng! Nhưng chị
lại mê anh ta. Nếu anh ta là người khác, tôi đã khuyên chị nên nói với anh ấy
tất cả, nhưng, biết tính anh ta rồi, tôi lại bảo chị nên im lặng. Ngoài tôi ra,
không ai biết chuyện cũ của chị.

Thế rồi mà cái tên Eustace quỷ quái xuất hiện?
Chuyện ra sao, các ông đã biết. Hắn bắt đầu móc tiền cửa chị ấy không thương
tiếc, và mới ngày hôm qua đây chị mới hiểu ra là sẽ liên luỵ đến cả Charles.
Nếu chị lấy Charles, Eustace càng tăng cường đe doạ… Mà Charles thì giầu có,
lắm tham vọng, rất sợ tai tiếng!

Eustace đi rồi, mang theo số tiền cuối cùng chị
có, chị đã suy nghĩ rất nhiều, rồi lên phòng viết thư cho tôi, nói chị yêu
Charles, không thể sống thiếu anh, nhưng chính vì lợi ích của người yêu, chị
không thể đi đến kết hôn. “Chị đành chọn lối thoát duy nhất”, thư chị viết như
thế.

Jane ngửa
đầu ra phía sau:

- Tôi
hành động như thế, có gì sai, mà các ông gọi là tội ác.

Poirot
nghiêm nghị đáp:

- Vì như
thế vẫn là tội ác. Tội ác có vẻ có lý do chính đáng, nhưng vẫn là tội ác. Cô
thẳng thắn và sáng suốt, vậy hãy nhìn thẳng vào sự thật. Bạn cô chết, nói đúng
ra là vì bà ấy không có can đảm để sống. Chúng ta có thể thương xót bà. Song sự
thật vẫn là sự thật…! Bà ấy tự bắn mình, chứ không phải bị người bắn.

Ông ngừng
một lát mới nói tiếp.

- Còn cô?
Người ấy lúc này đang ở tù, và sẽ còn ở lâu vì những tội danh khác. Cô có thật
sự muốn tự mình huỷ hoại cuộc sống - tôi nói là cuộc sống của bất cứ con người
nào?

Jane trân
trân nhìn thám tử, đôi mắt tối sầm, rồi đột ngột nói nhỏ:

- Không,
ông nói đúng. Tôi không muốn.

Rồi cô
quay gót bỏ đi, đóng sầm cửa sau lưng.

Japp huýt
một tiếng sáo dài:

- Ui cha!
Không ngờ!

Poirot
ngồi xuống mỉm cười thân ái. Một lúc lâu không ai nói gì. Cuối cùng, Japp lên
tiến:

- Không
phải là giết người ngụy trang thành tự tử, mà là tự tử bố trí thành có vẻ giết
người.

- Đúng,
và sự bố trí rất khéo.

- Còn
chiếc hòm con? - Japp hỏi. - Nó đóng vai trò gì?

- Không,
tôi đã nói rồi, nó chẳng liên quan gì.

- Vậy thì
tại sao…?

- Ông
Japp ơi, các gậy gôn. Đó là những gậy cho người thuận tay trái. Jane
Plenderleith gửi gậy của mình ở Wentworth, cái túi chứa các gậy là của Barbara
Allen, nên chúng ta phải mở tủ kho, cô gái hoảng sợ là phải. Toàn bộ kế hoạch
của cô ta có thể đổ vỡ. Song cô ta rất nhanh trí, và hiểu là mình đã gây sự
nghi ngờ, nên là ngay cái việc đầu tiên nảy ra trong óc để kéo sự chú ý của
chúng ta vào vật vô hại. Cô ta chỉ chiếc hòm con và nói: “Cái này là của tôi,
vừa mang về sáng nay, bên trong không có gì đặc biệt”. Và đúng như cô ta dự
kiến, chúng mình đã bị lạc hướng. Cũng với lý do ấy, sáng hôm sau khi cô ta ra
đi để rũ bỏ những gậy gôn của Barbara, cô ta tiếp tục dùng chiếc hòm con làm
đối tượng để chúng ta đi lạc đường.

- Ông
muốn nói rằng mục đích thật của cô ta là…

- Ông bạn
hãy suy nghĩ xem. Nơi nào tốt nhất để vứt bỏ một bó gậy gôn? Không thể đốt,
không bỏ được vào thùng rác, nếu để vương vãi đâu đó, sẽ có người mang trả lại.
Cô Plenderleith đã mang chúng đến một sân gôn, để chúng trong phòng, lấy hai
gậy trong túi của chính mình, rồi đi ra bãi gôn mà không gọi thằng bé phục vụ
đi theo.. Chắc hẳn, cô ta sẽ cố tình làm gẫy một, hai gậy rồi quẳng nó vào bụi
cây, thế là xong.

- Thấy
vương vãi những mảnh cây gẫy, không ai buồn để ý, vì nhiều vận động viên thường
hành động như vậy vì tức tối sau khi đánh trượt. Cô Plenderleith biết là nhất
cử nhất động của mình bị theo dõi, đã ném mồi nhử kia - tức là chiếc hòm con -
xuống hồ để mọi người trông thấy. Đó, là sự thật về cái bí mật của chiếc hòm
con.

Japp nhìn
ông bạn hồi lâu, không nói, rồi bỗng đứng lên, vỗ vai Poirot, phá lên cười:

- Khá
lắm, lão cáo già ạ! Ông thắng rồi, Đi, tôi khao ông một bữa ra trò.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3