Trảm long (Tập 2) - Chương 10 - Phần 1
Chương 10: Vô vị thiền
Trời vẫn chưa sáng,
cả bọn vòng khỏi đường cái quan men bờ Cán Giang, theo đường nhỏ quay ngược lại,
đi thẳng lên núi Thanh Nguyên.
Trên đường lên núi,
ngựa không thể chạy nhanh, Lục Kiều Kiều mới kể chuyện An gia trang bị thiêu
rụi, phát hiện viên gạch lát sàn bị lật lên làm ám hiệu, nhặt được nhẫn của cha,
dọc đường bị quan sai chặn lại kiểm tra, rồi rơi vào ảo trận kỳ môn cho hai
người anh nghe.
Có điều, chuyện Tôn
Tồn Chân luôn theo dõi họ trong thời gian dài, và việc đổi long huyệt thiên tử
lấy vàng ở núi Phù Dung thì cô không nhắc đến.
Cô cũng hỏi chuyện
biết được, thì ra nhị ca An Thanh Viễn của cô mấy năm nay vẫn luôn ở Đằng Xung
mở xưởng khai thác ngọc, tháng trước anh ta nhận được thư của đại ca, nói đã
tìm thấy tiểu muội An Thanh Như ở Quảng Châu, nhưng nhà của cô đã bị người ta
vô cớ phá hoại, rất có thể nhà cũ ở Giang Tây cũng xảy ra chuyện. Vì vậy, anh
ta liền dẫn theo hai tiêu sư vội vã trở về. Tiếc rằng về đến nhà thì phát hiện
An gia trang đã bị thiêu rụi, cha cũng không biết ở đâu, liền báo quan lập án
điều tra. Không lâu sau, đại ca An Thanh Nguyên cũng trở về phủ Cát An, sau khi
hai huynh đệ gặp nhau, họ vẫn luôn chờ đợi Lục Kiều Kiều trở về. Vì An gia
trang đã bị thiêu hủy, mọi người không có chỗ trú chân, An Thanh Viễn đành phái
người ngày ngày quay về An gia trang trông chừng.
Hôm nay vừa nghe
nói em gái đã trở về, hai huynh đệ lập tức qua sông đuổi theo Lục Kiều Kiều.
Chẳng ngờ, lại gặp phải một trận ác chiến.
Phương Đông dần
hửng sáng, cả bọn cưỡi ngựa đi qua cánh cổng màu đỏ tươi trên núi Thanh Nguyên,
phong cảnh đột nhiên thay đổi. Bên tai văng vẳng tiếng suối róc rách không
ngừng như xa như gần; bốn phía núi non sừng sững, nguy nga hùng vĩ.
Trước khi trời sáng
là thời điểm lạnh nhất, mấy người trẻ tuổi bọn Lục Kiều Kiều vừa trải qua huyết
chiến đều thiếu y phục, lạnh run lên cầm cập trong tiết cuối thu. An Thanh
Nguyên mang theo nhiều hành lý nhất, anh ta đưa cho Lục Kiều Kiều và Tôn Tồn
Chân một chiếc áo choàng, rồi lại phát cho Jack và An Long Nhi thêm một chiếc
nữa.
An Thanh Nguyên hỏi
Lục Kiều Kiều: “Muội quen người nào trên núi Thanh Nguyên à? Thực ra chúng ta
xuống phủ Cát An cũng có khách điếm ở được...”
Lục Kiều Kiều ngẫm
nghĩ giây lát rồi đáp: “Cha có một người bạn cũ ở chùa Tịnh Cư trên núi, muội
muốn tìm tung tích của cha nên lên đây để hỏi thử.”
Cô hơi lấy làm lạ, không
hiểu sao An Thanh Nguyên lại xa lạ với bạn bè của cha mình như thế, có phải cha
cô cố ý không cho anh ta biết không?
Nhị ca An Thanh
Viễn cũng bắt lời: “Nhị ca cũng không biết cha có bạn trên núi... nhưng bạn bè
cha nhiều lắm, cứ hỏi thế này chẳng phải quá phiền phức sao?”
Lục Kiều Kiều nói: “Lão
hòa thượng ở gần An gia trang nhất, vì vậy cứ hỏi ông ấy trước đã. Vốn muội
định đến phủ Cát An đợi hai huynh, đồng thời lên núi tìm lão hòa thượng, muội
đã để lại thư trong phòng các huynh ở An gia trang rồi đó.”
“Lại còn là lão hòa thượng à? Cha chúng ta cũng giỏi kết bạn thật đấy, loại
người nào cũng quen hết.” Nhị ca An Thanh Viễn tính tình hướng ngoại, nói năng
xưa nay đều không phân lớn nhỏ.
Vòng vèo mấy lượt ở lưng chừng núi, cả bọn liền trông thấy một khoảng đất
bằng phẳng. Nhìn từ trên đường núi xuống, chỉ thấy cây rừng rậm rạp, trong rừng
rải rác mấy mái ngói lưu ly nhấp nhô, nơi này chính là chùa Tịnh Cư mà hồi nhỏ
Lục Kiều Kiều thường theo cha đến thăm lão hòa thượng.
Lục Kiều Kiều thông thạo đường núi ở đây, nhanh chóng vòng tới cửa chùa,
vừa khéo nghe thấy bên trong đang đánh chuông sớm, mấy tiểu hòa thượng đi ra mở
cửa quét sân.
Tiểu hòa thượng trông thấy trước cửa có một đám người đi tới, ai nấy đều
cầm vũ khí, có mấy người mình mẩy còn đầm đìa máu tanh, đều kinh ngạc ra mặt.
Lục Kiều Kiều dẫn theo Tôn Tồn Chân xuống ngựa, bước tới nói với họ: “Xin
hỏi có Vô Vị đại sư ở đây không?”
Một tiểu hòa thượng trong bọn thấy Lục Kiều Kiều xinh đẹp đáng yêu, theo lẽ
thường ắt không phải là người xấu, bèn trả lời Vô Vị đại sư đang ở bên trong
làm khóa sớm.
Lục Kiều Kiều nhờ hòa thượng vào thông báo một tiếng, sau đó gọi cả bọn
xuống ngựa đứng trước cửa đợi đại sư sắp xếp.
An Thanh Nguyên nghe pháp hiệu của Vô Vị đại sư, lấy làm hứng thú hỏi Lục
Kiều Kiều: “Pháp hiệu của hòa thượng này thật hiếm có, thông thường đều là
những tên kiểu như Minh Tuệ Tịnh Thiện gì đó, muội có biết tại sao ông ta lại
đặt pháp hiệu là Vô Vị không?”
“Hồi muội theo cha đến đây, có nghe bọn họ nhắc đến chuyện này. Ông ấy rất
thích ăn các món chay ngon, nhưng đồ ăn nhà bếp làm hằng ngày chẳng có mùi vị
gì cả; ông ấy thường nhân lúc có khách đến, nói là phải chiêu đãi khách, tranh
thủ vào bếp đích thân làm các món chay ngon lành, tên các món ăn ấy toàn là gà
quay chay, sườn chay... gì gì đó.
Một lần sư trụ trì hỏi ông ấy, đồ ăn con nấu và đồ ăn nhà bếp nấu có khác
biệt gì không? Ông ấy bảo không có gì; sư trụ trì liền nói, nếu không khác gì,
thế con đang làm gì vậy? Ông ấy nói, con ăn vào thì không thấy khác biệt, nhưng
muốn dẫn dắt người khác hướng Phật mà cứ cho người ta ăn các món chay vô vị,
người ta ăn một lần là bỏ đi rồi. Chúng ta trước tiên phải giữ lại mùi vị của
những đồ ăn mặn để người ta ăn chay, sau đó từ từ giảm mùi thịt, như vậy mới có
thể mở rộng thiện môn, kết thiện duyên rộng khắp...”
An Thanh Nguyên cười ha hả nói: “Hòa thượng này thú vị thật, về sau ông ấy
có làm thức ăn cho các vị thí chủ nữa không?”
Lục Kiều Kiều nói: “Chuyện về sau mới gọi là thú vị, sư trụ trì nghe ông ấy
nói vậy, liền tặng cho một bức hoành phi, bên trên viết hai chữ ‘Vô Vị’ lớn, để
ông ấy treo trong Thiền phòng của mình, ngày ngày nhắc nhở bản thân chớ nên
tham vui ăn uống.
Không lâu sau, sư trụ trì qua đời truyền lại vị trí ấy cho Vô Vị đại sư,
ông ấy liền viết thêm vào hai chữ đại tự của trụ trì tiền nhiệm hai chữ nữa,
một trước, một sau, thành kỳ vị vô cùng[1]...”
[1] Mùi vị ấy vô cùng vô tận.
“Kỳ vị vô cùng? Ha ha ha...” Cả đám người nghe xong câu chuyện về Vô Vị đại
sư đều phá lên cười.
Trước cửa chùa xuất hiện một hòa thượng vừa gầy vừa lùn vừa già, trên người
khoác tăng bào gọn gàng sạch sẽ, hai mắt sáng rực có thần, chống một cây thiền
trượng cao gấp đôi người mình, vừa thấy Lục Kiều Kiều đã giơ thiền trượng chỉ
vào đầu cô quát hỏi: “Bên trong này là thứ gì?”
Lục Kiều Kiều đáp: “Chẳng có gì cả.”
Lão hòa thượng lại quát, lần này nghiêm giọng hơn: “Không có cái gì?”
Đây là lễ chào hỏi của Thiền môn, trí tuệ sắc sảo của Thiền môn xưa nay vẫn
thể hiện qua những lời vấn đáp chan chát, trong chớp mắt ngắn ngủi làm người ta
ngộ ra Phật tính, nhưng Lục Kiều Kiều chẳng qua chỉ nghe Vô Vị đại sư và cha
mình nghiền ngẫm Thiền cơ từ nhỏ nên học được đôi chút cung cách đối đáp chứ
thực ra chẳng hiểu gì Thiền ý căn bản bên trong, cô thấy Vô Vị đại sư tiếp tục
truy hỏi, liền ngây ra một hồi không biết trả lời thế nào, sau đó bật cười khúc
khích, trả đũa luôn: “Không có mùi vị nữa rồi... ha ha ha...”
Vô Vị đại sư nghe cô nói thế cũng cười nói: “Con quỷ nhỏ, chỉ được cái
miệng, chứ bảo cháu tu thiền thật cháu đâu có chịu...”
Lục Kiều Kiều giới thiệu mọi người cho Vô Vị đại sư, Vô Vị đại sư cũng nhận
thấy có chuyện không bình thường, lập tức sắp xếp chỗ nghỉ cho cả bọn, rồi tìm
người băng bó bôi thuốc cho Jack và An Long Nhi.
Sau bữa sáng, Vô Vị đại sư hẹn đám Lục Kiều Kiều đến phòng khách gặp mặt.
Jack và An Long Nhi bị thương nặng, đành phải ở lại phòng nghỉ ngơi, Lục Kiều
Kiều tắm rửa chải chuốt xong xuôi, rồi dẫn Tôn Tồn Chân cùng tới phòng khách.
Vừa bước qua cửa, cô liền trông thấy bên trong ngoài Vô Vị đại sư, còn có
bốn người đàn ông nét mặt nghiêm trang đang ngồi trong trà thất.
Bốn người này ăn mặc kiểu dị tộc, xem ra không giống người Hán hay người
Bát Kỳ.
Hai người trong số họ cạo trọc đầu, tăng bào trên người vừa nhìn đã biết
ngay là tăng bào, nhưng nhìn kỹ lại không giống kiểu dáng mà Vô Vị đại sư đang
mặc; hai người còn lại tuy có tóc, phía sau đầu cũng tết bím, nhưng lại không
cạo trán như người Hán và người Mãn, mà cạo từ trán đến đỉnh đầu, tạo thành một
mảng trọc lốc ở giữa.
Qua sự giới thiệu của Vô Vị đại sư cô biết được, bốn người này là khách đến
từ Nhật Bản, người lớn tuổi nhất trông cũng không quá ba mươi mấy, vận tăng
bào, tên là Hotta Masayoshi; người trẻ nhất chỉ mười mấy, cỡ ngang tuổi An Long
Nhi, cũng mặc tăng bào, tên là Hotta Masatomo; hai người còn lại một người đeo
song kiếm một dài một ngắn, thoạt nhìn có vẻ hiền lành, nhưng nhìn kỹ lại thấy
toàn thân y từ trên xuống dưới đều toát lên một lực căng như thể loài báo, bất
cứ lúc nào cũng sẵn sàng lao tới, tên là Miyabe Ryokura, người còn lại khoảng
hơn hai mươi, bộ dạng thanh tú, nhưng ánh mắt lại thâm trầm thu liễm, thần thái
nhàn nhã, như một người trung niên đã nhìn thấu thế thái nhân tình. Tên y là
Niwa Kumo.
Hai huynh đệ An Thanh Nguyên và An Thanh Viễn cũng cùng bước vào, An Thanh
Nguyên vừa trông thấy Hotta Masayoshi liền ngẩn ra một thoáng, ngoảnh đầu hỏi
Vô Vị đại sư: “Vô Vị đại sư, vị này là khách quý từ đâu đến vậy?”
Vô Vị đại sư cười ha hả nói: “Vẫn là đại ca biết nhìn người nhất, họ từ
Nhật Bản vượt đường xa tới đây, vị này là Hotta Masayoshi... Masayoshi quân,
đây là An Thanh Nguyên, con trai ruột người bạn già của lão nạp, còn đây là An
Thanh Viễn, họ với Tiểu Như là người một nhà, là anh em... khà khà...”
Mọi người làm quen nói chuyện phiếm một hồi, Lục Kiều Kiều là con gái mà
không sợ mất thể diện, một tay dắt Tôn Tồn Chân, một tay kéo Vô Vị đại sư sang
một bên, thuật lại chuyện cha mình đã mất tích hai năm, An gia trang bị thiêu
hủy cùng tình trạng cần cứu chữa gấp của Tôn Tồn Chân.
Phía bên kia, An Thanh Nguyên mỉm cười hỏi Hotta Masayoshi: “Hotta tiên
sinh thân ở ngôi cao, lại vượt đường xa thâm nhập vào một thị trấn nhỏ trong
lục địa Trung Quốc, chẳng hay có việc gì vậy?”
Hotta Masayoshi mỉm cười, không nói không rằng nhìn An Thanh Nguyên, nhưng
thiếu niên Hotta Masatomo bên cạnh y lại cất tiếng trả lời: “Núi Thanh Nguyên
là đạo tràng của Thiền tông thất Tổ, Hành Tư tông sư, sáu trăm năm trước, Đạo
Nguyên tiên sư đã từ núi Thanh Nguyên truyền bá Tào Động tông đến Nhật Bản, từ
đó trở đi, tăng nhân Nhật Bản thường trở về núi Thanh Nguyên để lễ Tổ; Tào Động
Thiền tông là tín ngưỡng của gia tộc Hotta, lần này cha tôi muốn hoàn thành
nguyện vọng bấy lâu nay, nên đặc biệt vượt đường xa tới đây.”
An Thanh Viễn nghe chẳng hiểu gì, bèn quay sang hỏi đại ca An Thanh Nguyên:
“Nhật Bản là nơi nào thế?”
“Nhật Bản là một nước ngoài biển Đông, rất gần Trung Quốc, đôi bên đã qua
lại cả nghìn năm nay rồi.” An Thanh Nguyên giải thích qua loa, rồi lại nói với
Hotta Masayoshi: “Nom Hotta tiên sinh dáng gấu thế hổ tai như tai voi, mũi như
túi mật treo ngược, miệng như chim ưng, không giống người tu đạo, lẽ nào là
trọng thần của triều đình Nhật Bản?”
Người thanh niên có vẻ nho nhã Niwa Kumo mỉm cười nhìn Hotta Masayoshi,
thấy Hotta gật gật đầu, anh ta bèn cất lời nói với An Thanh Nguyên: “Chủ công
là Trung Lão của Mạc Phủ, quan đại danh của vùng Sakura, tương đương với tri
châu của Trung Quốc. Có điều, nhìn An tiên sinh cũng không giống khách dâng
hương bình thường, hẳn là một vị quan cao của Đại Thanh rồi?”
An Thanh Nguyên lắc đầu cười cười nói: “Tại hạ chỉ là một giáo thư quèn lo
việc khoa cử thôi, Hotta chủ công lại là bậc trọng thần được cắt đất phong hàm,
không cùng một cấp bậc với tri châu của Đại Thanh, tại hạ lại càng không thể so
sánh được... ha ha ha... Hotta tiên sinh chắc không phải chỉ đến lễ Tổ, người ở
đất khách nhất định có nhiều điều bất tiện, có gì cần Thanh Nguyên giúp xin cứ
nói ra, chớ nên khách khí.”
Hotta Masayoshi đưa tay ra làm động tác bảo mọi người dừng lại, Niwa Kumo
lập tức ngừng nói, Hotta lên tiếng: “Cảm tạ ý tốt của An tiên sinh, thực không
dám giấu, lần này tại hạ đến đây là muốn cầu được đạo làm cho đất nước mạnh
lên.”
Những người có mặt đều sững sờ trước chủ đề lớn bất ngờ này, tất cả người
Trung Quốc không hẹn mà cùng thầm nghĩ, đang yên đang lành đột nhiên nói ra
chuyện này liệu có phải hơi quá rồi không? Trong tư tưởng nho gia của Trung
Quốc, xưa nay vẫn là bất tại kỳ vị, bất mưu kỳ chính (không ở
vị trí ấy thì không lo toan việc ấy); kể cả có nói, thì cũng không tùy tiện
buột miệng nói ra trước mặt người lạ, giờ Hotta Masayoshi không nói thì thôi,
vừa mở miệng ra đã bàn chuyện quốc gia đại sự, khiến cả phòng tiếp khách đều
yên ắng hẳn đi.
Hotta Masayoshi nói: “An tiên sinh, ngài là quan viên lo việc khoa cử, hẳn
phải đọc vô số sách vở, nhìn thấu được đại thế trong thiên hạ... Mạc Phủ hiện
nay đang thực hiện chính sách bế quan tỏa cảng dọc bờ biển Nhật Bản, toàn bộ
Nhật Bản chỉ có cảng Nagasaki là cho phép thuyền buôn của Hà Lan và Trung Quốc
cập bến, vả lại người nước ngoài còn không được phép đặt chân lên nước Nhật...
Nhưng những nhân sĩ có kiến thức trong nước Nhật đều lần lượt nhận ra, hàng
hóa Tây Dương từ bên ngoài đến tốt hơn hàng Nhật Bản sản xuất rất nhiều, vũ khí
cũng càng ngày càng tân tiến, thuyền hàng và súng pháo của bọn họ đã đến cửa
ngõ Nhật Bản, nếu lần sau là chiến hạm xuất hiện thì phải tính sao?
Trước đây Đại Thanh cũng thực thi chính sách chỉ thông quan một cửa, cả
nước chỉ có cảng Quảng Châu cho tàu buôn nước ngoài dừng đỗ, Nhật Bản hiện tại
chính là như vậy; cuối cùng, vì Đại Thanh từ chối yêu cầu khẩn thiết của các
nước Tây Dương về việc thông thương, đã dẫn đến cuộc chiến thông thương mấy năm
trước do nước Anh phát động, hẳn An tiên sinh vẫn còn nhớ rõ?”
Hotta Masayoshi vừa nhắc đến cuộc chiến tranh Nha Phiến lần thứ nhất trong
lịch sử Trung Quốc, trong các ghi chép bên phía Anh quốc, cuộc chiến này được
gọi bằng tên “cuộc chiến thông thương”. An Long Nhi
cũng mất cha mẹ trong cuộc chiến tranh này.
An Thanh Nguyên là
mệnh quan triều đình, nghe thấy một người nước ngoài nói chuyện quốc sự của Đại
Thanh, không khỏi từ từ chau mày lại, ánh mắt trở nên nặng nề trang nghiêm.
Hotta Masayoshi và
ba người Nhật Bản khác vẫn ngồi im lìm bất động, sống lưng ưỡn thẳng, cả bốn
người ngồi tĩnh lặng như một bức tranh, chỉ thấy miệng Hotta Masayoshi khe khẽ
chuyển động, tiếng Hán của ông ta không lưu loát cho lắm nhưng âm điệu thấp
trầm rất uy nghiêm.
“Hiện giờ các nước
Tây Dương không ngừng đưa ra yêu cầu thông thương với Mạc Phủ. Mở cửa biển, chính
quyền Mạc Phủ sợ quyền lực bị ảnh hưởng; không mở cửa biển, Nhật Bản sẽ ngày
càng lạc hậu, Mạc Phủ cứ kéo dài hết năm này đến năm khác như vậy, rồi chỉ bước
vào vết xe đổ của Đại Thanh, bị các cường quốc Tây Dương khơi ra một trận chiến
thông thương khác ở Nhật Bản, lúc đó Nhật Bản sẽ bị người Tây áp chế ở khắp mọi
nơi như Đại Thanh ngày nay...”
An Thanh Nguyên
chen vào hỏi: “Hotta tiên sinh cũng nói sau chiến tranh thông thương, Đại Thanh
bị người Tây áp chế ở mọi mặt, vậy ngài đến Trung Quốc thì tìm được đạo gì cho
nước mạnh lên đây?”
Hotta Masayoshi
nói: “Nửa năm trước, ở chỗ một thương nhân Trung Quốc, tại hạ tìm được một cuốn
sách tên là Hải quốc đồ chí, tuy rằng chỉ có một tập, nhưng tại hạ
xem xong liền mất ngủ suốt ba ngày... Trong sách nhắc đến việc dùng kỹ thuật
của người Tây để đối phó người Tây, dùng hệ thống chính trị của người Tây trị
lý quốc gia, đồng thời cũng đưa ra chiến lược tổng thể nhằm đối phó với nền
kinh tế và quân sự của các cường quốc phương Tây, vẽ ra hải đồ thế giới, thậm
chí còn thu thập cả kỹ thuật Tây Dương của các ngành nghề khác nhau nữa. Tư
tưởng của quyển sách này vừa hay có thể giải quyết được nguy cơ mà chính quyền
Mạc Phủ đang phải đối mặt hiện nay, thậm chí còn có thể biến nguy cơ ấy thành
cơ hội, đáng tiếc tại hạ chỉ có được tập đầu tiên. Bộ sách này có thể giúp Đại
Thanh xưng bá thiên hạ, đồng thời cũng có thể giúp Nhật Bản xưng bá thiên hạ, vì
vậy tại hạ mới lập tức đích thân đến Trung Quốc, muốn tìm toàn bộ Hải
quốc đồ chí...”
“Hải quốc đồ chí của
Ngụy Nguyên?”
“An tiên sinh quả
nhiên có biết pho sách này?” Trong Hotta lóe lên vẻ kích động lạ thường.
“Lấy đạo của người
Tây để đánh trả người Tây, dùng đạo của người Tây để đối đãi lại với họ, học
theo sở trường của họ mà chế phục lại họ...”
“Đúng thế! Đây
chính là nội dung tại hạ đọc được trong tập đầu tiên, An tiên sinh đã đọc hết
cả bộ sách này rồi?!” Hotta Masayoshi kích động đứng bật dậy nói: “Tại hạ đã
không nhìn lầm An tiên sinh, ngài thật sự có thể hiểu được những gì tại hạ nói.”
An Thanh Nguyên
lịch sự đứng lên nói: “Mấy năm trước khi tại hạ còn làm giám học trong cung, bên
dưới có dâng lên một bộ sách này để Thánh thượng xem xét, Thanh Nguyên cũng xem
qua một chút, toàn bộ có một trăm hai mươi quyển, phần ngài xem chắc là quyển
đầu tiên, trong đó có nhiều quan điểm khiến Thanh Nguyên rất thán phục.”
Hotta Masayoshi đột
nhiên quỳ thụp xuống trước mặt An Thanh Nguyên, ba người còn lại cũng lập tức
ra phía sau ông ta, nhất tề quỳ xuống trước An Thanh Nguyên. Hotta Masayoshi
nói: “Xin An tiên sinh nhất thiết phải giúp tại hạ tìm được một bộ Hải
quốc đồ chí, ngài có thể đưa ra giá tiền điều kiện gì cũng được, xin kính
nhờ An tiên sinh.”
Hotta Masayoshi nói
xong, bốn người Nhật Bản cùng cúi rạp đầu sát đất, An Thanh Nguyên vội vàng đỡ
Hotta Masayoshi dậy nói: “Chớ nên đa lễ, ngài hãy nghe Thanh Nguyên nói rõ tình
hình trước đã, mọi người hãy ngồi lên, ngồi đi ngồi đi...”
Lục Kiều Kiều chưa
bao giờ nghĩ sẽ gặp người Nhật Bản ở đây. Mấy năm nay thương nhân các nước đến
Quảng Châu càng lúc càng nhiều, thỉnh thoảng cô cũng thấy có thương nhân Nhật
Bản, nhưng một vị quan Nhật Bản lại lên tận núi Thanh Nguyên ở sâu trong lục
địa cao đàm khoát luận chuyện quốc gia đại sự, vượt ngàn dặm xa tìm sách quý để
mở cửa biển cho Nhật Bản thì thực sự nằm ngoài tưởng tượng của Lục Kiều Kiều.
Qua cuộc đối thoại giữa đại ca An Thanh Nguyên và Hotta Masayoshi, cô cảm giác
được sức nặng của việc nước, cũng cảm nhận được chuyện mà họ đang nói có liên
quan đến từng người dân bình thường nhất trong thiên hạ, khiến cho người xưa
nay chưa từng hỏi đến việc nước như cô cũng chăm chú dỏng tai lên lắng nghe.
An Thanh Nguyên đỡ
mấy người Nhật Bản ngồi dậy, chậm rãi nói: “Thực ra bộ sách này không phải nói tìm
là tìm được ngay, bằng không hôm nay Hotta tiên sinh cũng không ở chùa Tịnh Cư
này rồi... Người viết sách Ngụy Nguyên là văn nhân trong dân gian, một người
ủng hộ quan viên chủ chiến Lâm Tắc Từ trong chiến tranh Nha Phiến, sau khi
chiến sự thất bại, Lâm Tắc Từ bị mất chức quan, song vẫn bỏ tiền giúp Ngụy
Nguyên viết xong bộ Hải quốc đồ chí, còn muốn tìm thư điếm để xuất
bản nữa.
Nhưng khi sách được
đưa vào cung thẩm duyệt, nó liền bị hầu hết các quan viên phản đối. Trong sách
nói dùng cách của người Tây để thay đổi Trung Quốc, tức là muốn biến Trung Quốc
thành giống như các quốc gia Tây Dương, đây là cách thức mà không một vị quan
nào có thể chấp nhận; trên dưới trong triều đều nhất trí rằng Đại Thanh ta là
nước lớn của Thiên triều, ngoài việc khiến Tây Dương biến thành Trung Quốc ra, những
chuyện khác đều không cần phải nghĩ đến; các quan đều cho rằng quyển sách này
làm đám người Tây thêm kiêu căng, phá hoại sự uy nghiêm của nước mình, những kỹ
thuật Tây Dương mà sách đề xướng nên học theo đều là mấy trò bàng môn tà đạo, sẽ
khiến dân chúng đắm chìm thất chí; mà trong sách còn nhắc đến việc học theo chế
độ triều cương của các nước Tây Dương, nói ‘không có quân chủ, chỉ lập trưởng
quan, quý tộc... xử lý việc nước’, lại còn ‘người thủ lĩnh không làm cả đời, hết
bốn năm là thay đổi’... Không lập quân chủ đã là tội đại nghịch bất đạo, còn
đòi hỏi quan viên không được cha truyền con nối, bốn năm thay đổi một lần
trưởng quan lại càng không thể được. Bộ sách này lập tức bị hoàng thượng cấm
chỉ, tin rằng cũng chỉ có vài ba bản được in ấn ở trong dân gian mà thôi...”
Thần sắc Hotta
Masayoshi lập tức trở nên ảm đạm: “Chậc... ra là vậy...”
An Thanh Nguyên vỗ
vai Hotta Masayoshi nói: “Hotta tiên sinh chớ nản lòng, An Thanh Nguyên không
phải đám quan viên hủ lậu ấy, tại hạ hiểu được suy nghĩ của ngài. Nếu Hotta
tiên sinh đã có chí muốn cho nước mạnh, Thanh Nguyên sẽ gắng sức giúp ngài tìm
kiếm bộ sách này, một khi tìm thấy lập tức giao đến tay Hotta tiên sinh.”
Hotta Masayoshi
quay đầu nhìn An Thanh Nguyên, nghiêm nghị gật gật đầu nói: “Vô cùng cảm tạ
ngài đã hiểu cho, Hotta nhất định sẽ báo đáp An tiên sinh trọng hậu. Nhưng ngay
cả Hoàng đế Đại Thanh cũng căm ghét bộ sách này như thế, cho dù tại hạ có lấy
được, Thiên hoàng và Tướng quân chắc gì đã tiếp nhận nó đây...”
Hotta Masatomo chợt
lên tiếng nói với cha: “Phụ thân đại nhân từng nói, samurai tuyệt đối không
được từ bỏ mộng tưởng của mình, Hotta Masatomo nhất định sẽ ủng hộ phụ thân đại
nhân đến cùng.”
An Thanh Nguyên
cũng nói: “Phải đấy, chưa thử qua thì làm sao biết không được. Ừm... các vị đến
chùa Tịnh Cư được bao lâu rồi?”
Hotta Masatomo nói:
“Mười lăm ngày rồi.”
An Thanh Nguyên lại
hỏi: “Tại hạ có chuyện này không được rõ lắm, không biết các vị có thể giải đáp
cho chăng?”
Hotta Masayoshi
nói: “Xin An tiên sinh chỉ giáo.”
“Nếu các vị muốn
nhanh chóng tìm được Hải quốc đồ chí thì phải đến các hiệu
sách trong thành lớn mà tìm, vả lại còn không thể chậm trễ, giờ đường đường là
quan đại danh đứng đầu một vùng lại ở ngôi chùa nhỏ hẻo lánh này suốt mười lăm
ngày, không phải đặc biệt đến đây để tham thiền đấy chứ?”
Vô Vị đại sư nheo
nheo mắt nhìn bọn họ, không nói một lời.
Tay trái của Miyabe
Ryokura nhẹ nhàng đặt lên thanh trường kiếm nơi thắt lưng, ngón cái chống vào
cán, đẩy lưỡi kiếm ra khỏi vỏ; An Thanh Nguyên đột nhiên rút phắt trường kiếm
ra, dấn tới một bước giơ kiếm đâm thẳng trước ngực Miyabe Ryokura.
Ánh đao lóe lên, trong
phòng khách vang lên tiếng kim loại chạm nhau chát chúa.
An Long Nhi nghỉ
ngơi được một lúc, định ra ngoài xem Lục Kiều Kiều ở đâu, vừa đi qua trước cửa
phòng tiếp khách liền nhìn thấy màn kinh tâm động phách ấy.
Miyabe Ryokura bật
dậy khỏi ghế bước lên một bước, rút kiếm đón lấy chiêu kiếm của An Thanh Nguyên,
đồng thời chém tạt vào ngực anh ta.
Cánh tay cầm kiếm
của An Thanh Nguyên bị bật văng lên cao, Miyabe Ryokura giờ đang đứng ở vị trí
lúc nãy anh ta vừa đứng, trong khoảnh khắc ngắn ngủi chỉ như tia lửa lóe lên ấy,
hai người đã đổi vị trí cho nhau.
Miyabe Ryokura còn
chưa đứng thẳng người dậy, đã thu kiếm về vỏ. An Thanh Nguyên hạ trường kiếm
xuống, thanh kiếm vẫn chấn động phát ra những tiếng “u u” hồi lâu. Anh ta kề
ngón tay lên sống kiếm, đợi chấn động dừng lại rồi cũng thu kiếm về.
Khi anh ta xoay
người lại, mọi người trông thấy ngực áo chẽn của anh ta đã bị Miyabe Ryokura
rạch một vệt dài chừng một thước.
Miyabe Ryokura quay
lại nói với An Thanh Nguyên: “Thất lễ rồi.” Đoạn hơi khom người một cái.
An Thanh Nguyên
cũng chắp tay nói: “Đa tạ đã nhường.” Sau đó chầm chậm cởi bỏ chiếc áo bị rách
đưa cho Lục Kiều Kiều cầm.
Hotta Masayoshi
đứng dậy dẫn ba người Nhật Bản tới trước mặt An Thanh Nguyên khom người hành lễ,
nói với thái độ khá đúng mực: “Vô cùng xin lỗi, là thuộc hạ của tại hạ thất lễ,
xin An tiên sinh thứ cho.” Sau đó, ông ta lại ngồi xuống.
An Thanh Nguyên
cười cười đáp: “Kiếm thuật của Miyabe tiên sinh cao cường, kiếm pháp Nhật Bản
đã khiến An Thanh Nguyên được mở rộng tầm mắt, khâm phục, khâm phục. Nếu không
phải Miyabe tiên sinh nương tay, tại hạ chắc đã mất mạng ở đây rồi...”