Khúc nhạc đồng quê - Quyển 2 - Phần 2
Sarah giống mẹ nó, điều
này làm cho tôi không bao giờ muốn gửi con bé vào nội trú. Nó không giống tí
nào than ôi! Với mẹ nó lúc còn bằng tuổi nó, khi chúng tôi mới đính hôn, mà
giống ở những cái lo lắng của cuộc sống vật chất đã tạo thành cho nàng, mà tôi
nói là sự gieo trồng những mối lo lắng của cuộc đời (bởi vì chắc chắn là Amélie
đã gieo trồng những thứ ấy). Hẳn là ngày nay tôi khó mà nhận ra ở nàng người
thiên thần mới đây còn tươi cười với mỗi niềm phấn khởi cao cả của tâm hồn tôi,
người mà tôi mơ ước kết chặt vào đời tôi, và người mà tôi cho là đã vượt lên
trước tôi và hướng dẫn tôi về phía ánh sáng - hay là tình yêu thuở ấy làm tôi
lóa mắt?… Bởi vì tôi chẳng khám phá ra ở Sarah những mối lo lắng nào khác hơn
là những cái tầm thường vụn vặt, theo gương mẹ, nó để mình bận rộn duy nhất với
những cái tủn mủn, ngay cả những đường nét trên khuôn mặt của nó cũng không
rạng lên tí ngọn lửa nội tâm nào, trông buồn tẻ và như cứng đanh lại. Chẳng có
tí khiếu nào về thi ca hay nói chung về sách vở; tôi không bao giờ gặp bất chợt
một câu chuyện giữa nó và mẹ nó mà tôi có thể mong muốn tham gia và khi gần họ
tôi cảm thấy sự cô độc của tôi càng thêm đau đớn đền nỗi tôi rút lui vào
bàn làm việc của tôi, riết rồi thành thói quen làm như thế càng ngày càng
thường xuyên hơn.
Cũng từ hồi trời chuyển
sang thu lại thêm đêm xuống nhanh mà tôi học được cái thói quen đền dùng trà
tại nhà cô Louise mỗi lần mà vòng đi công việc trong ngày cho phép, có nghĩa là
khi tôi có thể về sớm. Tôi chưa nói là từ hồi tháng mười một năm ngoái, cô
Louise nhận nuôi chung với Gertrude ba đứa trẻ mù mà Martins đã đề nghị gửi gắm
cho bà ta; và bây giờ lại đến lượt Gertrude dạy cho chúng đọc và thực hiện
những công việc vặt vãnh và những đứa bé gái đã tỏ ra khá khéo léo.
Thật là một chốn nghỉ
ngơi, một sự an ủi biết bao cho tôi mỗi lần tôi bước vào cái bầu không khí ấm
cúng của la Grange, và tôi sẽ thiếu thốn biết bao nếu đôi khi
bị kẹt đôi ba ngày không đến được. Cô Louise thì khỏi phải nói, có khả năng
nuôi ăn ở cho ba dứa nhỏ mà không hề phải vất vả hay khó nhọc trong việc săn
sóc chúng, ba người giúp việc rất tận tụy đã giúp bà ta thoát khỏi mọi công
việc mệt nhọc. Nhưng phải chăng có thể nói chưa bao giờ tiền của và thì giờ nhàn
rỗi đã được dùng xứng đáng hơn? Lúc nào cô Louise cũng chăm lo cho kẻ nghèo, đó
là một tâm hồn đạo đức sâu đậm, hình như được sinh ra để ban cho trái đất này
và chỉ sống trên trái đất này để yêu thương, mặc dù mái tóc của bà ta đã gần
bạc phơ, ẩn trong một cái mũ nồi bằng đăng ten, nhưng không có gì trẻ thơ hơn
nụ cười của bà ta, không có gì hài hòa hơn cử chỉ của bà ta, không có gì réo
rắt như tiếng nhạc hơn giọng nói của bà ta. Gertrude đã học được cái phong
thái, cách nói năng của bà ta, một thứ âm điệu không phải chỉ tiếng nói, mà còn
về tư tưởng, về tất cả con người - sự giống nhau mà tôi nói đùa người này là
người kia, nhưng không một ai trong hai người nhận thấy. Thật là êm ái cho tôi
nếu tôi có thì giờ nán lại thêm một chút gần họ để nhìn họ, để họ người này
ngồi cạnh người kia và Gertrude hoặc là tựa trán vào vai bạn mình, hoặc buông
thả bàn tay mình trong tay người kia, nghe tôi đọc vài câu thơ của Lamartine
hoặc của Hugo, thất là êm dịu cho tôi khi lặng ngắm trong hai tâm hồn trong
suốt sự phản chiếu của bài thơ này! Ngay cả những đứa học trò nhỏ cũng không
thờ ơ. Những đứa bé này, trong bầu không khí thanh bình và thưpng yêu đã phát
triển một cách kỳ diệu và đạt được những tiến bộ đáng kể. Tôi đã mỉm cười trước
tiên khi cô Louise nói để dạy cho chúng khiêu vũ, vì lợi ích sức khoẻ cũng như
vui thú; nhưng hôm nay thì tôi mới chiêm ngưỡng được cái duyên dáng nhịp nhàng
của nhũng vận động mà chúng vừa mới làm và chúng, than ôi! Không có thể tự đánh
giá. Tuy nhiên cô Louise bảo cho tôi biết rằng, chúng không thể nhìn thấy những
vận động này, nhưng chúng vẫn cảm nhận thấy sự hoà hợp của các bắp thịt.
Gertrude tham dự vào các cuộc khiêu vũ này với một sự duyên dáng và một sự
duyên dáng đẩy quyến rũ, và còn tìm thấy nơi đây một sự vui thích mãnh liệt. Hoặc
đôi khi chính cô Louise hoà mình vào cuộc chơi của mấy đứa nhỏ, và lúc ấy thì
Gertrude ngồi vào đàn dương cầm. Sự tiến bộ về âm nhạc của con bé thật vượt
bực; bây giờ con bé đánh đàn cho nhà thờ mỗi chủ nhật và dạo mở đầu các bản
thánh ca bằng những khúc ứng tấu ngắn.
Mỗi chủ nhật, con bé
đến ăn điểm tâm tại nhà chúng tôi, mấy đứa con tôi gặp lại nó với vẻ hài lòng,
mặc dù sở thích của chúng và của con bé ngày càng khác nhau. Amélie cũng không
tỏ ra quá găng và bữa ăn trôi qua không trục trặc. Sau đó cả gia đình dẫn
Gertrude về lại nhà và dùng bữa lót dạ ở La Grange. Đúng là
một ngày lễ cho mấy đứa con tôi vì cô Louise lấy làm vui thích thiết đãi và
chiều chuộng chúng bằng kẹo bánh. Cả Amélie không mấy nhạy cảm với những sự ân
cần mời mọc, cuối cùng cũng vui tươi lên và tỏ ra như trẻ lại. Tôi tin là từ
nay nàng sẽ khó mà bỏ qua cái trạm nghỉ chân này trong dòng đời tẻ ngắt của
nàng.
18 tháng 5.
Lúc này những ngày đẹp
trời đã trở về, tôi lại có thể đi dạo ra ngoài với Gertrude, điều mà từ lâu đã
không xảy ra cho tôi (bởi vì vừa mới đây cũng có vài cơn tuyết đổ và các con
đường cho tới mấy ngày cuối này vẫn ở trong tình trạng khủng khiếp), không kể
đến chuyện đã từ lâu tôi cũng không có dịp gặp riêng con bé.
Chúng tôi bước nhanh,
bầu khí ấm làm hồng đôi má con bé và không ngừng lùa mớ tóc hoe trước mặt nó.
Trong khi chúng tôi men theo một cái đầm than bùn, tôi ngắt vài nhánh bấc có
hoa, và luồn cái cọng hoa dưới mũ bê rê của nó, rồi lấy tóc của nó bện vào
để giữ cành hoa lại.
Chúng tôi gần như chưa
có lời nào, cùng ngạc nhiên thấy mình lại gặp riêng nhau một mình, thình lình
Gertrude quay qua hỏi tôi, khuôn mặt không nhìn:
- Thầy có tin là
Jacques còn yêu con?
- Nó đã chọn sự ra đi
để rút lại tình yêu con. - Tôi trả lời ngay lập tức.
- Mà thầy có tin anh ấy
cũng biết thầy yêu con. - Con bé lại nói.
Từ lần chuyện trò mùa
hè năm ngoái mà tôi đã thuật lại, hơn sáu tháng đã trôi qua không hề nghe (tôi
ngạc nhiên) nay tiếng yêu lại được thốt ra giữa chúng tôi. Chúng tôi đã không
bao giờ gần riêng với nhau, tôi đã nói, và như vậy vẫn tốt hơn… Câu hỏi của
Gertrude làm tim tôi đập mạnh đến nỗi tôi phải chậm bớt bước chân của chúng tôi
lại.
- Nhưng tất cả mọi
người, Gertrude à, biết là ta yêu thương con mà. - Tôi nói lớn. Con bé không có
vẻ gì thay đổi.
- Không, không phải,
thầy không trả lời ngay vào câu hỏi của con.
Và sau một hồi yên
lặng, con bé nói tiếp, đầu cúi thấp xuống:
- Dì Amélie của con
biết điều ấy; và con biết điều này làm cho dì ấy buồn.
- Bà ấy buồn không phải
vì chuyện ấy. - Tôi chống chế bằng một giọng không mấy an tâm. Bản tính bà
ấy là lúc nào cũng buồn.
- Ố! Thầy luôn luôn tìm
cách trần an con. - Nó nói với một vẻ hơi nóng nảy. - Nhưng con không cần được
trấn an. Có nhiều việc, con biết là thầy không để cho con biết, vì ngại làm cho
con lo lắng hoặc làm con đau lòng, khá nhiều việc mà con không biết, đến nỗi
đôi khi…
Giọng con bé càng lúc
càng trầm xuống, con bé ngừng lại như hết hơi. Vin vào mấy tiếng cuối của nó,
tôi hỏi:
- Thỉnh thoảng thế
nào…?
- Đến nỗi thỉnh thoảng,
- Con bé nói tiếp một cách rầu rầu. - tất cả cái hạnh phúc mà con có được
nhờ thầy lại tỏ ra cho con thấy như xây trên sự ngu dốt.
- Nhưng, Gertrude à…
- Không, hãy để cho con
nói với thầy: con không muốn thứ hạnh phúc như vậy. Hãy hiểu cho con rằng con
không… Con không muốn hạnh phúc. Con thích biết hơn. Có rất nhiều điều, chắc
chắn là chuyện buồn mà con không thể nhìn thấy, nhưng thầy không có quyền để
cho con không biết. Con đã suy nghĩ lại rất nhiều trong mấy tháng mùa đông; con
e rằng, thầy có thấy không, là trọn cái thế giới này không đẹp như là thầy đã
làm cho con tin, thưa mục sư, và ngay cả nó cũng không cần thiết phải đẹp đến
như vậy.
- Quả thật con người
thường làm cho trái đất này xấu đi. - Tôi cãi lý một cách dè dặt, bởi vì cái đà
suy nghĩ của con bé làm tôi sợ và tôi thử xoay đổi câu chuyện nhưng không kết
quả. Hình như con bé chờ đợi mấy lời này, bởi vì, chụp ngay lấy đó như cái mắt
xích nhờ đó người ta nối sợi dây chuỗì lại, nó nói lớn lên:
- Thật đúng vậy, con
muốn chắc chắn là mình không có đem thêm chút gì vào cái xấu.
Chúng tôi tiếp tục bước
nhanh hồi lâu trong yên lặng. Tất cả những gì tôi có thể nói với con bé đều
đụng chạm trước với những điều tôi cảm thấy con bé đang suy nghĩ; tôi e ngại
lại khêu lên vài lời nói mà số phận của hai chúng tôi sẽ tùy thuộc vào. Và suy
nghĩ về những lời Martins đã nói với tôi có lẽ người ta có thể trả lại nhãn
quan cho con bé, một nỗi lo sợ se thắt tim tôi.
- Con muốn hỏi thầy, -
Sau cùng con bé nói. - nhưng mà con không biết nói cách sao…
Chắc chắn con bé đã thu
hết can đảm cũng như tôi thu hết can đảm của tôi để nghe. Nhưng làm sao
tôi có thể thấy trước câu hỏi đang dày vò nó.
- Có phải những đứa trẻ
sinh ra từ những người mù cũng chắc chắn sẽ bị mù?
Tôi không biết ai trong
hai chúng tôi là kẻ mà câu chuyện này đè nặng lên nhiều hơn, nhưng lúc này thì
chúng tôi phải tiếp tục.
- Không, Gertrude à. -
Tôi nói với nó. - Chỉ họa hoằn vài trường hợp đặc biệt. Cũng không có lý lẽ nào
buộc chúng phải như vậy cả.
Con bé tỏ ra rất an
tâm. Đến lượt tôi muốn hỏi nó tại sao lại hỏi tôi điều đó; tôi không có can đảm
và tiếp tục một cách vụng về:
- Nhưng mà, Gertrude à,
muốn có con phải lấy chồng.
- Đừng có nói với con
điều ấy, thưa mục sư. Con biết là điều ấy không đúng.
- Ta đã nói với con cái
điều đứng đắn. - Tôi chống chế. - Nhưng mà sự thực thì luật thiên nhiên vẫn cho
phép cái gì mà luật của Thiên Chúa và của con người cấm đoán.
- Thầy vẫn thường nói
với con là luật của Thiên Chúa cũng chính là luật của tình yêu.
- Tình yêu nói đến ở
đây chỉ là cái mà người ta cũng gọi là bác ái.
- Có phải vì lòng bác ái
mà thầy yêu thương con?
- Con biết rõ là không
phải như vậy, hỡi Gertrude con của ta.
- Nhưng mà vừa rôi thầy
biết là tình yêu của chúng ta thoát ra ngoài lề luật của Thiên Chúa?
- Con muốn nói gì?
- Ôi! Thầy biết rõ điều
đó mà, và không phải con là người phải nói ra.
Tìm cách nói lòng vòng
không xong, lòng tôi rối lên với sự rút lui của những lý luận đang tháo chạy.
Tôi cuống quít nói lớn:
- Gertrude… con nghĩ
tình yêu của con là có tội?
Con bé chỉnh lại:
- Tình yêu của chúng
ta… Con bảo mình là phải suy nghĩ.
- Rồi sao nữa?
Tôi ngạc nhiên như lời
nói của tôi có một sự van lơn, trong khi không cần lấy hơi con bé nói luôn:
- Nhưng mà con không
thể thôi không yêu thầy được.
Tất cả những chuyện ấy
xảy ra vào ngày hôm qua. Thoạt tiên tôi lưỡng lự không muốn viết ra… Tôi không
còn biết cuộc đi dạo kết thúc như thế nào. Chúng tôi bước nhanh như thể là trốn
chạy, và tôi cầm tay con bé ép chặt vào mình. Linh hồn tôi lúc này như thoát ra
khỏi xác - tôi có cảm tưởng như chỉ một hòn sỏi nhỏ trên đường cũng đủ làm cho
cả hai chúng tôi ngã lăn kềnh xuống đất.
19 tháng 5.
Martins đã trở lại sáng
hôm nay. Gertrude có thể giải phẫu được. Roux xác định như vậy và yêu cẩu gửi
gắm con bé cho ông ta chữa trị một thời gian. Tôi không thể chống đối lại việc
này, tuy nhiên, vì hèn, tôi đã yêu cầu để suy nghĩ. Tôi đã yêu cầu họ để cho
tôi chuẩn bị một cách từ tốn… Tim tôi lẽ ra phải nhảy nhót lên vì vui mừng,
nhưng tôi lại cảm thấy nó như đè nặng lên tôi, nặng nề như một nỗi thống khổ
không làm sao diễn tả xiết. Ý tưởng phải thông báo cho Gertrude là nhãn quan
của con bé có thể phục hồi, làm lòng tôi se thắt lại.
Đêm 19 tháng 5.
Tôi đã gặp lại Gertrude
và tôi không nói gì với con bé. Tại la Grange tối hôm đó, nhân
lúc không có ai trong phòng khách, tôi lên thẳng phòng con bé. Chỉ có mình
chúng tôi.
Tôi đã ôm sát con bé
vào tôi khá lâu. Con bé không tỏ một cử chỉ phản kháng nào, và vừa lúc con
bé ngẩng trán lên về phía tôi, đôi môi của chúng tôi đã gặp nhau…
21 tháng 5.
Lạy Chúa, Có phải vì
chúng con mà Ngài đã làm cho đêm thật sâu và thật đẹp? Có phải vì con mà khí
trời ấm áp và qua cửa sổ rộng mở của phòng con, ánh trăng lan vào và con nghe
được cái thinh lặng bao la của tất cả các tầng trời. Ôi lòng tôn thờ tạo vật
lẫn lộn này mà tim con đang hòa tan trong một sự ngất ngây không lời. Con chỉ
còn biết cầu nguyện rối rít. Nếu như có ranh giới trong tình yêu, thì
không phải là do Ngài đặt ra, lạy Chúa, nhưng mà là do con người. Dù tình yêu
của con có tỏ ra tội lỗi trước mặt loài người, Ôi! Hãy nói cho con biết, đối
với Ngài, là thánh thiện.
Tôi cố gắng tự nâng
mình vượt lên trên cái ý tưởng tội lỗi. Nhưng tội lỗi hình như lại không buông
tha tôi, và tôi lại không muốn từ bỏ Thiên Chúa. Không, Tôi không chấp
nhận yêu thương Gertrude là tội lỗi. Tôi không thể rứt bỏ tình yêu này ra
khỏi trái tim tôi vì chẳng khác nào như rứt bỏ trái tim tôi, và tại sao? Khi
tôi chưa yêu con bé, tôi phải thương yêu nó vì lòng trắc ẩn; không yêu nó nữa,
như thế là phản bội nó; nó cần đến tình yêu của tôi…
Lạy Chúa, con không còn
biết gì nữa… Con chỉ còn biết có Chúa. Xin hãy dìu dắt con. Đôi khi con
cảm thấy mình như chìm sâu trong bóng tối và cái thị giác mà người ta sắp mang
trả lại cho con bé là lấy mất của con.
Gertrude đã vào bệnh
viện của tỉnh Lausanne ngày hôm qua. Tôi chờ đợi sự trở về của con bé với một
nỗi phập phồng vô cùng. Martins sẽ phải đưa con bé về cho chúng tôi. Con bé đã
bắt tôi hứa là sẽ không đến tìm nó ở đó.
22 tháng 5.
Thư của Martins: Cuộc
giải phẫu đã thành công. Ngợi khen Chúa!
24 tháng 5.
Ý tưởng phải để cho con
bé trông thấy mình trong khi lâu nay con bé yêu tôi mà không nhìn thấy được -
cái ý tưởng này gây cho tôi một sự bực bội khó chịu vô cùng. Con bé sẽ có thể
nhận ra tôi không? Lần đầu tiên trong đời, tôi tìm cái gương soi một cách lo
lắng. Nếu tôi cảm thấy cái nhìn của con bé kém khoan dung hơn trái tim của nó,
và kém yêu thương, tôi sẽ trở thành như thế nào đây? Lạy Chúa, con thấy hình
như đôi khi con cần đến tình yêu của con bé để yêu Ngài.
27 tháng 5.
Một số công việc phụ
trội đã cho phép tôi trải qua mấy ngày cuối cùng bớt bồn chồn. Mỗi một việc bận
bịu có thể làm cho tôi quên nghĩ đến mình đều đáng mừng, nhưng suốt ngày dài,
nơi đâu, hình ảnh con bé vẫn theo tôi.
Ngày mai là ngày con bé
phải trở về. Amélie suốt tuần nay chỉ tỏ ra cho tôi cái khía cạnh tốt nhất của
tâm tính nàng và hình như cốt làm cho tôi quên kẻ vắng mặt, giờ đây cũng sửa
soạn với mấy đứa nhỏ để ăn mừng con bé trở về.
28 tháng 5.
Gaspard và Charlotte đã
ngắt những gì người ta có thể tìm thấy như là hoa trong rừng và trên cánh đồng.
Mụ Rosalie làm một cái bánh mứt vĩ đại mà Sarah đã điểm xuyết thêm bằng mấy món
trang trí bằng giấy mạ vàng mà tôi không biết gọi là gì. Chúng tôi chờ con bé
vào trưa nay.
Tôi viết để tiêu hao
thì giờ chờ đợi. Đã mười một giờ. Chốc chốc tôi lại ngẩng đầu lên và nhìn về
hướng con đường mà xe của Martins sẽ về qua. Tôi giữ mình không vội ra gặp họ:
như thế tốt hơn, và cũng để tránh cho Amélie không chia rẽ sự tiếp đón của tôi.
Lòng tôi rộn lên… Kìa! Họ đã đến!
28, vào buổi tối.
Tôi đã đắm mình vào một
đêm khủng khiếp biết bao!
Xin thương xót con, lạy
Chúa, xin thương xót con! Con xin từ bỏ thương yêu con bé, nhưng thưa
Ngài, xin đừng để cho con bé chết!
Mà tôi có lý do để sợ
hãi thật! Con bé đã làm gì? Con bé đã muốn làm điều gì? Amélie và Sarah đã nói
với tôi là họ tháp tùng con bé đến tận cửa la Grange, và cô Louise
đang đợi con bé ở đó. Vậy thì con bé đã muốn trở ra ngoài lại… Cái gì đã xảy
ra?
Tôi tìm cách sắp xếp
lại mớ tư tưởng của tôi cho có chút trật tự. Những chuyện mà người ta kể cho
tôi đều không hiểu nổi, hoặc mâu thuẫn. Tất cả rối rắm trong đầu óc tôi… Người
làm vườn của cô Louise vừa mới đem con bé trở về la Grange trong
trạng thái bất tỉnh, ông ta nói thấy con bé đi dọc theo sông, rồi vượt qua cái
cầu của khu vườn, rồi cúi xuống, rồi biến mất, nhưng vì thoạt đầu không biết là
con bé ngã, ông ta đã không chạy đến ngay như lẽ ra ông ta đã phải làm; ông ta
đã tìm thấy lại con bé gần cái cống nhỏ mà dòng nước đã cuốn con bé trôi đến
đó. Khi tôi gặp lại con bé một lúc sau đó, nó vẫn chưa hồi tỉnh, hoặc vừa mới
hôn mê trở lại, bởi vì một lúc sau con bé đã hồi tỉnh, nhờ vào sự chăm sóc tận
tình kịp thời. Martins, thật là có ơn Chúa, hãy còn chưa ra về, đang cố tìm
cách giải đoán cái kiểu mê sảng và thờ ơ lãnh đạm mà con bé đang chìm vào, mặc
dù đã có hỏi con bé nhưng vô ích, người ta bảo là con bé không nghe thấy gì
hoặc con bé nhất định giữ im lặng. Hơi thở của con bé như bị nghẹt và Martins e
ngại con bé bị sưng phổi, nên đã đặt thuốc dán và ống giác cho con bé và hứa
ngày hôm sau sẽ trở lại. Sự sai lầm là người ta đã để con bé giữ nguyên bộ quần
áo ướt đẫm nước trên người, mà nước sông thì lạnh cóng, trong khi lo cứu cho
con bé tỉnh lại trước tiên. Cô Louise là người duy nhất có thể gặng hỏi con bé
được vài câu, cho rằng con bé muốn ngắt mấy cánh hoa lưu ly mọc đầy dẫy ở phía
đó của bở sông, nhưng rồi còn vụng về trong việc lượng định khoảng cách, hoặc
là tưởng rằng cái thảm hoa kia là đất liền vững chãi, con bé đã hụt chân bất
thình lình… Nếu có thể tin được điều đó, tôi sẽ bảo rằng đấy chỉ là một tai nạn
và như vậy thì sự nặng nề khủng khiếp sẽ được cất nhắc khỏi tâm hồn
tôi! Trong suốt bữa ăn, mặc dù rất vui vẻ, nhưng cái nụ cười khác lạ không
rời con bé, đã làm tôi băn khoăn, một nụ cười miễn cưỡng mà tôi chưa bao giờ
thấy nơi con bé nhưng tôi cố gắng tin đó cũng là nụ cười của cái nhìn mới mẻ
của nó, một nụ cười tưởng chừng tuôn ra từ khoé mắt xuống khuôn mặt của con bé
như dòng lệ, và gần đó, cái vui vẻ tầm thường của những kẻ khác làm tôi bực
mình. Con bé không hoà mình vào niềm vui! Có thể bảo là con bé đã khám phá ra
một điều bí mật mà chắc chắn là con bé sẽ có thể thổ lộ cho tôi biết nếu như
chỉ có một mình tôi với nó. Con bé gần như không nói lời nào; nhưng không ai
lấy làm ngạc nhiên, bởi vì khi gần những người khác, và nhất là khi họ đang vui
nhộn, con bé thường lặng lẽ.
Lạy Chúa, con cầu khẩn
Ngài, hãy cho phép con được nói chuyện với con bé. Con cần được biết, bằng
không làm sao con tiếp tục sống? Và một khi con bé không còn muốn sống, có phải
đúng là đã biết? Biết gì? Bạn của tôi ơi, bạn đã học được gì là
khủng khiếp? Ta giấu cái chết chóc để làm gì khi thình lình con đã có thể biết?
Tôi nán lại thêm hai
giờ tại đầu giường con bé, mắt không rời vầng trán, đôi má nhợt nhạt của nó,
cặp mi mắt mỏng nhắm lại trên một nỗi phiền muộn khó tả, tóc hãy còn ướt nước
và giống như rong, rải ra trên gối xung quanh đầu - trong khi lắng nghe hơi thở
không điều hòa và nặng nhọc của nó.

