Hòn đảo cá heo xanh - Chương 01 - 02
CHƯƠNG
I
CON CÁ VOI ĐỎ
Chiếc tàu
Aleut đến đảo chúng tôi vào một buổi sáng mùa xuân. Lúc đầu, nó chỉ là một cái
chấm, giống như một cái vỏ sò nhỏ trên mặt biển. Nó đến gần hơn và trông to
hơn. Giờ thì giống như một con chim trên mặt nước. Sau cùng tôi trông thấy rõ
ràng. Giờ tôi đã biết nó là cái gì. Đó là một con tàu màu đỏ với hai cánh buồm
cũng màu đỏ.
Em tôi và
tôi đang nhổ các cây cỏ củ gần bãi biển. Các loại cây này chỉ mọc vào mùa xuân.
Em tôi, Ramo, được sáu tuổi, còn tôi mười hai tuổi. Nó nhỏ con so với tuổi và rất
khéo. Nhưng nó sẽ quên ngay công việc khi có chuyện gì hấp dẫn nó. Giờ tôi cần
sự giúp đỡ của nó, do vậy tôi không nói gì về vỏ sò và con chim. Tôi tiếp tục đào
kiếm củ với cây gậy của tôi.
Nhưng đôi mắt
của Ramo không bỏ sót mọi việc. Đôi mắt của nó to, đen, đôi khi trông như buồn
ngủ. Chính lúc đó là lúc nó trông rất rõ. Giờ đây đôi mắt nó mở he hé.
“Biển rất
êm”, Ramo nói. “Đó là
khối đá trên đó không có vết gợn.”
“Biển không
là khối đá không vết gợn,” tôi nói. “ Đó là nước không có sóng.”
“Theo em,
đó là một khối đá xanh. Và hôm nay có một đám mây nhỏ ngồi trên khối đá.”
Tôi cho rằng
Ramo có thể đã thấy con tàu.
“Mây không
ngồi trên đá,” tôi nói.
“Nhưng mà đám
mây đó có đấy.”
“Không phải
ngồi trên biển,” tôi nói. “Cá heo và chim ngồi trên đó, và tất cả cá voi nữa.
Nhưng mây thì không phải.”
Ramo nhìn
chiếc tàu. Nó không biết chiếc tàu như thế nào. Tôi biết bởi vì tôi đã nghe cha
tôi miêu tả một chiếc tàu. Tôi nhớ những lời nói của cha tôi.
“Có thể đó
là một con cá heo bự hoặc một con cá voi,” Ramo nói.
“Trong lúc
em cứ nhìn ra biển,” tôi nói. “Chị đào kiếm củ. Chị có cái gì để dùng còn em
không có gì cả.”
[Chúc bạn đọc sách
vui vẻ tại www.gacsach.com - gác nhỏ cho
người yêu sách.]
Ramo bắt đầu
đào, nhưng nó không nhìn xuống đất. Chiếc tàu với những cánh buồm đỏ càng đến gần.
“Chị có biết
con cá voi đỏ như thế nào chứ?” Nó hỏi.
“Có biết.”
Tôi đáp, nhưng đó chỉ là lời nói dối. Trên đời không có con cá voi đỏ!
“Em chỉ biết
cá voi xanh.” Ramo nói.
“Em còn quá
nhỏ. Em không biết hết mọi vật lội trong biển.”
“Đó
là chiếc xuồng!” Ramo bỗng la lên. “Một chiếc thuyền bự.”
Nó chạy xuống
bãi cỏ dài, khích động la lớn. Tôi còn khích động hơn cả Ramo. Tôi biết đó là
chiếc tàu. Đó là không phải chiếc thuyền lớn. Không rõ nó sẽ mang đến những điều
tốt lành cho đảo, hay mang đến sự xáo trộn? Tôi muốn buông cây gậy và chạy theo
Ramo. Nhưng tôi không làm. Thức ăn cần cho người làng.
Tàu Aleut
chạy qua một thảm tảo rộng bao quanh đảo, sau đó nó len lỏi qua những khối đá
và tiến đến bãi.
Dân làng đã
biết có tàu đến. Đàn ông chạy ra bờ biển, đàn bà thì đứng trên các bờ đá cao.
Túi xách của
tôi đã đầy củ, do vậy tôi đi nhanh khỏi bờ biển. Tôi nép mình trong bãi cỏ cao ở
đỉnh bờ đá và nhìn xuống bãi cát trắng. Phân nửa đàn ông của làng đứng chờ gần
bờ biển. Số còn lại nấp sau những khối đá nằm dưới chân con đường mòn. Ho sẵn
sàng tấn công những người khách lạ nếu bọn người này tỏ ra không thân thiện.
Bảy người
đàn ông rời tàu trên một chiếc xuồng nhỏ. Sáu người dân Aleut, mặt họ hẹp, rộng,
tóc đen dài. Người thứ bảy cao ráo, râu tóc vàng hoe, gã đứng trên chiếc xuồng.
Cha tôi thường
nói chuyện với người Bắc Âu. Người Bắc Âu đến từ phương Bắc và dân làng tôi sợ
họ. Người đàn ông với bộ râu này có thể là người Bắc Âu.
Chiếc xuồng
cập bãi. Gã người cao ráo nhảy khỏi xuồng và la hét gì đó với những người kia.
Tiếng nói nghe rất xa lạ đối với tôi. Tôi biết gã là người Bắc Âu.
Gã nói với
dân làng bằng tiếng nói của chúng tôi. “Tôi là bạn,” gã nói chậm chạp. “Tôi muốn
nói chuyện với các bạn.”
Cha tôi bước
đến chỗ gã: “Ta là Tù trưởng của Ghalas-at,” cha nói: “Tên tôi là Tù trưởng
Chowig.”
Tôi ngạc
nhiên vì cha nói tên thật cho người lạ nghe. Chúng tôi mỗi người có hai tên.
Tên thật rất bí mật và rất đặc biệt nên chúng tôi ít khi dùng. Mọi người gọi
tôi là Wen-a-pa-lei, con gái Tóc Đen Dài. Tên bí mật của tôi là Karana. Tên bí
mật của cha là Chowig.
Gã đàn ông
mỉm cười, đưa bàn tay lên: “Tên tôi là Orlov.” Gã nói: “Tôi cùng với bốn mươi
người đi săn rái cá. Tôi muốn ở lại trên đảo các ông vào mùa hè.”
Cha tôi
không nói gì. Đây không phải là lần đầu tiên người Aleut đến viếng đảo chúng
tôi. Đã từ rất lâu họ đến để săn rái cá, cha tôi rất nhớ điều đó.
“Ông nhớ một
chuyến đi sắn khác.” Orlov nói khi cha tôi không đáp lời gã. “Tôi cũng biết
chuyện đó. Có sự xáo trộn bởi vì dân của ông phải làm đủ mọi chuyện.”
“Đúng vậy,”
cha tôi nói: “Chúng tôi đã không nghỉ ngơi trong nhiều tháng.”
“Lần này
người của tôi sẽ săn rái cá.” Orlov nói: “Chúng tôi sẽ lấy da của chúng. Các
ông sẽ được một phần, chúng tôi hai phần. Chúng tôi sẽ mua lại của ông.”
“Phần của
chúng tôi cũng như phần của các ông.” Cha tôi nói.
Orlov nhìn
ra biển, “Chúng ta sẽ bàn chuyện đó về sau.” Gã nói. “Sắp có bão. Tôi muốn đem
đồ đạc từ tàu vào.”
“Tôi đồng
ý.” Cha tôi nói.
Gã Bắc Âu
vuốt râu: “Biển cả đâu phải của các ông. Tại sao chúng tôi chia phần cho các
ông?”
Cha tôi
đáp: “Biển cả chung quanh Đảo Cá Heo Xanh thuộc về chúng tôi.”
“Từ
đây đến bờ Santa Barbara à?” Orlov hỏi: “Cả sáu mươi dặm đấy!”
“Không, chỉ phần biển
sát đảo, nơi rái cá sống.”
Người của chúng tôi giờ
đứng cả trên bờ cát. Orlov nhìn họ, bỗng mỉm cười với cha tôi.
“Các phần sẽ như nhau.”
Gã đồng ý.
***
Trên đảo của chúng tôi
gió thổi mạnh hầu như suốt cả ngày. Đôi khi gió từ Tây Bắc đến, đôi khi từ hướng
Đông đến. Vì gió thổi quá mạnh nên cây cối không lớn và thắng nổi. Ngay cả những
rừng cây, cũng chỉ có những thân cây khẳng khiu. Vào mùa hè đôi khi có gió dịu
hơn.
Làng của chúng tôi,
Ghalas-at nằm ở phía Đông của đảo. Phía này gần bãi biển và có nước ngọt. Về
phía Bắc của làng, cách chỗ chúng tôi một dặm, cũng có một con suối nhỏ. Chính ở
nơi này bọn Aleut dựng lều của họ.
Tối hôm đó, cha tôi nói
chuyện với dân của người.
“Các cách cư xử của bọn
Aleut – tiếng nói của họ khác với chúng ta.” Cha nói. “Bọn họ đến đây để đánh bắt
rái cá. Chúng ta sẽ để cho họ phần da rái cá. Họ sẽ đưa trở lại cho chúng ta những
vật dụng mà chúng ta cần. Điều này rất tốt cho chúng ta. Nhưng chúng ta không
phải là bạn của bọn họ, và bọn họ cũng không phải là bạn của chúng ta. Nhiều
năm trước, những tay săn bắt khác cũng đã đến đây và đã gây nhiều phiền phức. Bọn
chúng đều là người Aleut.”
Do vậy chúng tôi không
đến gần người Aleut, và người Aleut cũng không đến làng chúng tôi. Dĩ nhiên
chúng tôi biết điều họ làm. Vài người của chúng tôi đứng trên dốc đá nhìn họ
săn bắt. Chúng tôi đếm số rái cá họ giết mỗi ngày. Vài người khác canh chừng lều
của họ. Chúng tôi cũng theo dõi chỗ bãi biển.
Ramo nói: “Người Aleut
ngồi trên đá và chải râu mỗi buổi sáng. Họ chải cho đến bao giờ râu bóng như mặt
trên vỏ sò.”
Một ngày nọ, chị lớn của
tôi, Ulape, bảo có một người con gái Aleut ở trong đám người đi săn: “Cô ta ăn
mặc như đàn ông.” Ulape nói. “Nhưng cô ta đội mũ làm bằng da thú. Dưới cái mũ
là mái tóc dày thả xuống đến tận eo.”
Không ai tin Ulape.
Chúng tôi cười to với cái ý là sao lại có người phụ nữ sống cùng với người đi
săn. Chúng tôi biết những người này không bao giờ đem vợ theo khi đi hành nghề.
Bọn Aleut cũng canh chừng
chúng tôi, và chúng tôi phát hiện ra điều đó do tình cờ.
Năm nay vào lúc này đây,
chúng tôi không đánh được nhiều cá bởi vì sóng to đã khiến chúng lặn xuống vùng
nước sâu. Do vậy chúng tôi không có cái gì nhiều để ăn.
Một ngày nọ, chị Ulape
đi đến mấy kè đá hi vọng sẽ kiếm được một ít tôm cua. Thình lình chị nghe có tiếng
động lớn sau lưng chị.
Chị quay lại nhìn thấy
những cái khối màu bạc chuyển động gần các tảng đá. Chị biết đó là những con cá
to, to gần bằng chị. Bọn chúng đã cố lội để tránh những con cá mập đói mồi. Gần
bờ biển nước không sâu lắm và những đợt sóng bất thần đã ném một số cá lên đá.
Ulape để rơi cái giỏ đựng
tôm cua xuống, chạy vội về làng. Chị nói không ra hơi khi về đến làng. Phụ nữ
đang nấu bữa ăn chiều. Họ dừng công việc lại, chờ nghe Ulape nói.
“Cá”, sau này chị cũng
nói được.
“Ở đâu? Ở đâu?” Có ai
đó hỏi.
“Trên đá. Khoảng một chục
con. Có thể hơn.” Ulape đáp.
Mọi người vội chạy ra
chỗ bờ đá. Cá có thể nhảy trở xuống biển.
Chúng tôi chạy lên chỗ
dốc đá và nhìn xuống. Cá còn ở đó nhưng nước biển đang lên cao. Sóng sắp chồm
qua các khối đá. Chúng tôi kéo cá đến chỗ cao hơn, nơi sóng biển không thể lên
tới. Cá thật to và nặng, do vậy phải hai người đàn bà mới khiêng nổi một con.
Có đủ cá cho mọi người
dùng trong buổi tối hôm nay và ngày mai. Nhưng vào buổi sáng hôm sau, hai tên
Aleut đến làng xin nói chuyện với cha tôi.
“Các ông bắt được cá.”
Một trong hai người nói với cha tôi.
“Chúng tôi chỉ có đủ
cho người chúng tôi ăn.” Cha tôi đáp.
“Các ông bắt được mười
bốn con.”
“Giờ còn bảy con, chúng
tôi đã ăn bảy.”
“Các ông có thể cho
chúng tôi hai con.”
“Các ông có bốn mươi
người ở trong lều.” Cha tôi đáp. “Nhưng chúng tôi có hơn bốn mươi. Các ông có
cá của các ông. Các ông đã đem theo cá khô khi các ông đến đây.”
“Chúng tôi
ăn cá khô đã ngán đến tận cổ.” Tên Aleut nói.
“Các ông là
những người đi săn,” cha nói. “Hãy đánh cá tươi mà ăn khi đã ngán cá khô. Tôi
phải lo cho dân tôi.”
“Nếu như
ông từ chối không cho chúng tôi vài con, tôi sẽ nói với Orlov.”
“Hãy nói với
y đi,” cha tôi không nhượng bộ. “Và hãy nói với y nghe các lý lẽ của chúng
tôi.”
Đêm hôm đó
chúng tôi ăn số cá còn lại, và chúng tôi rất sung sướng. Chúng tôi ăn và hát
ca, những người già kể chuyện đời xưa chung quanh bếp lửa. Chúng tôi không biết
sự vui sướng của chúng tôi sẽ mang đến cho chúng tôi bao nhiêu phiền phức.
Mỗi ngày
người Aleut đi săn rái cá. Họ cột các con thú chết vào thuyền của họ. Ban đêm họ
đem về đảo.
Trong biển
cả, rái cá khác hẳn các con thú khác. Chúng có bốn chân nhỏ, nhờ đó chúng lội rất
nhanh. Da của chúng dày và đẹp. Chúng thích nằm ngửa trên những thảm tảo, chơi
đùa và ngủ nghê dưới ánh mặt trời. Những người Aleut dùng lao giết những con
thú vô tư đó vì bộ da của chúng. Đêm đến họ lột da các con thú và xẻ thịt chúng
ra. Những con rái cá chết nằm la liệt trên bãi, nước biển nhuộm đỏ máu của
chúng.
Mỗi đêm,
dân làng chúng tôi lên bờ đá để đếm số da. Tôi không bao giờ lên đó. Tôi luôn nổi
giận khi thấy những ngọn lao của người Aleut. Rái cá là bạn của tôi và tôi
thương yêu chúng. Tôi vui thích khi thấy chúng đùa giỡn trong sóng nước.
Một ngày nọ
tôi nói với cha tôi.
“Người
Aleut đã giết quá nhiều rái cá,” tôi nói. “Chung quanh đây giờ gần như không
còn.”
Cha tôi cười
to: “Còn rất nhiều rái cá ở những chỗ khác. Bọn chúng sẽ lại đến đây khi bọn đi
săn ra đi.”
“Bọn họ sẽ
giết chết hết chúng,” tôi nói. “Sáng nay bọn họ đã đi truy tìm chúng ở bờ biển
phía Nam. Tuần sau nữa, họ sẽ đi đến chỗ khác.”
“Tuần tới,
họ sẽ chuẩn bị về nhà.” Cha tôi an ủi.
Cha tôi biết
bọn Aleut chuẩn bị về nhà. Vài người trẻ của chúng tôi, theo lời dạy của cha,
đóng một chiếc thuyền. Họ làm thuyền bằng một cây gỗ to tìm được trên bãi biển.
Trên đảo chỉ
có một ít cây nhỏ, nhưng đôi khi sóng biển mang đến bãi cát những thân cây chết.
Thường chúng tôi đem cây về làng, và người làng đóng thuyền ở đây. Lần này
chúng tôi đóng thuyền trên bãi. Và đêm nay, họ sẽ ngủ ở đó. Tất cả chúng tôi đều
biết có một lý do: người của chúng tôi canh chừng bọn Aleut! Tên Orlov có chịu
trả da cho chúng tôi không? Hay là gã định lẻn đi vào ban đêm.
***
CHƯƠNG
II
PHẢN
BỘI VÀ RA ĐI
Một buổi
sáng sớm, người Aleut mang đồ đạc của họ ra bãi biển. Đó là một ngày u ám và có
gió mạnh đến từ phương Bắc. Chúng tôi chưa được nhận tiền về da rái cá. Do vậy
người của chúng tôi vội vã băng qua khe chạy ra bãi. Đàn bà nấp trong các bụi cỏ
cao trên bờ đá. Tôi và chị Ulape cũng nấp ở đấy.
Cả những chồng
da rái cá nằm trên bờ đá. Phân nửa các tên săn bắt đã ở trên tàu. Số còn lại
ném da rái cá lên trên xuống. Cha tôi đang nói chuyện với Orlov, tôi không nghe
được lời họ nói. Đám người Aleut nói cười ầm ĩ.
Chiếc xuồng
giờ đã đầy da rái cá, nó được chèo ra tàu. Orlov đưa bàn tay lên ra dấu. Trong
một thời gian ngắn, chiếc xuồng từ chỗ tàu trờ lại cùng với một cái rương đen.
Hai tên đi săn khiêng cái rương lên bờ.
Orlov giở nắp
rương và lấy ra hai hay ba chuỗi hạt trai. Bầu trời không có nhiều ánh sáng, những
hạt trai lấp lánh trên tay y. Ulape rất xúc động, tôi nghe có những tiếng trầm
trồ của đám phụ nữ. Mọi người trong bọn họ đều yêu các hạt trai màu. Nhưng tiếng
trầm trồ của họ im bặt khi cha lên tiếng.
“Một chuỗi
hạt trai đổi lấy một tấm da rái cá là không đủ.” Cha nói.
“Một chuỗi
hạt trai và một đầu ngọn giáo bằng kim loại.” Orlov nói.
“Một cái
rương không đủ.”
“Còn nhiều
rương khác ở trên tàu.” Orlov biện bạch.
“Vậy thì
mang xuống đây. Có tất cả chín trăm tấm da rái cá ở trên tàu và năm mươi tấm ở
đây. Chúng ta phải nhận được ba rương nữa cùng kích thước này.”
Orlov nói
gì đó với các tên Aleut nhưng tôi không hiểu.
Bọn Aleut lại
mang các tấm da lên xuồng. Cha tôi đứng giữa bọn chúng và chiếc xuồng.
Cha nói:
“Các tấm da còn lại phải để lại đây. Các người có thể đem nó đi khi cái rương
khác xuống đây.”
“Chúng tôi
cần đem mọi thứ lên tàu.” Orlov nói, y nhìn lên trời. “Sắp có dông bão.”
“Đem rương
xuống đây. Sau đó chúng tôi sẽ đưa xuồng giúp các ông.”
Orlov không
nói gì. Y nhìn quanh, nhìn người của chúng tôi đứng trên bãi. Y nhìn lên bờ đá
và nhìn cha tôi. Y nói gì với bọn Aleut. Sau đó y lên xuồng và đi về tàu.
Bọn đi săn
di chuyển nhanh. Ulape và tôi chồm dậy, có tiếng la của đám đàn bà phía sau
lưng chúng tôi. Cha tôi nằm gục trên đá, mặt ông đầy máu. Ông từ từ đứng dậy.
Dân làng
nâng giáo lên và chạy xuống bãi về hướng Aleut. Một chùm khói trắng nhỏ bốc lên
từ chỗ chiếc tàu. Chúng tôi nghe một tiếng nổ lớn, thế là năm người chúng tôi
ngã xuống. Trận chiến diễn ra trên bãi. Người ta ngã xuống rồi lại đứng lên chiến
đấu tiếp. Vài người ngã xuống không đứng lên nữa. Cha tôi là một trong những
người không đứng lên.
Orlov từ
tàu trở lại với nhiều tên Aleut khác. Dân làng chúng tôi bị đẩy lùi về phía dốc
đá. Giờ phía chúng tôi không còn nhiều người nhưng họ tiếp tục chiến đấu.
Bỗng Orlov
và thủ hạ của y quay người lại và chạy ra chỗ xuồng. Người của chúng tôi không
đuổi theo. Bọn đi săn ra đến tàu. Chúng giương những cánh buồm đỏ, chiếc tàu chạy
giữa hai dãy đá ra khỏi Ghalas-at. Chúng tôi nhìn theo chiếc tàu đi xa dần. Một
chùm khói trắng từ tàu bốc lên, một tiếng hú lạ bay qua đầu của chúng tôi. Giống
như tiếng một con chim lớn đang bay.
Cha tôi đã
chết. Mọi người đều cho rằng lý do cái chết của cha là do lỗi của người. Cha đã
nói cho Orlov biết tên bí mật của ông. Trong khi đánh nhau, không ai còn có sức
mạnh nói ra tên bí mật của mình.
Trước khi
đánh nhau, chúng tôi có bốn mươi hai người đàn ông. Giờ chỉ còn mười lăm, trong
đó hết bảy ông lão. Mỗi người đàn bà mất một người cha hoặc một người chồng, một
người anh hay một đứa con trai. Trong mười lăm ngày đầu tiên, cả làng nghe vắng
lặng.
Chúng tôi
không thường đi xuống bãi. Khúc cây nằm ở đây, nhưng không ai muốn làm cho xong
chiếc xuồng. Mọi người quên lửng cái rương đựng hạt trai và đầu mũi giáo. Chúng
tôi chỉ đi tìm lương thực.
Chúng tôi
chọn thủ lĩnh mới. Tên ông là Kimki, ông rất già. Nhưng ông là người tốt, trong
thời ông còn trẻ, ông là người săn bắt giỏi. Kimki triệu tập toàn thể chúng tôi
lại và nói:
“Trong quá
khứ, đàn ông của chúng ta đi săn bắt cá để phục vụ chúng ta. Đàn bà nấu ăn, may
vá quần áo. Giờ phần lớn đàn ông đã chết, do vậy đàn bà phải học làm công việc
của đàn ông. Sự thay đổi này không bình thường lắm, nhưng là cần thiết. Tất cả
chúng ta sẽ chết nếu các người không đồng ý.”
Kimki phân
công cụ thể cho mỗi người đàn ông, đàn bà và trẻ con. Ông bảo chị Ulape và tôi.
“Công việc
của các cháu là bắt cua ốc trong các kẻ đá. Còn em các cháu có trách nhiệm giữ
cua ốc không bị chó và chim ăn.”
Công việc của
Ramo thật là khó khăn bởi vì trên đảo có rất nhiều chim, và cả nhiều chó nữa. Một
số chó là của dân làng. Khi chủ của chúng chết, chúng bỏ làng vào rừng. Sau đó
chúng trở về làng để ăn cắp thực phẩm. Mỗi buổi chiều, tôi và chị Ulape giúp
Ramo bỏ cua ốc vào bao. Sau đó chúng tôi đem về làng.
Mùa thu và
mùa đông lá mùa tôi rất đau buồn. Cha tôi là một người vóc dáng cao, khỏe mạnh
và tử tế, tôi không thể quên người. Mẹ tôi đã mất, tôi và Ulape luôn làm công
việc của bà. Giờ chúng tôi chỉ còn Ramo và thật khó mà trông chừng nó.
Vào mùa xuân,
Kimki quyết định đi khỏi đảo.
“Tôi sẽ
dùng một chiếc xuồng.” Ông nói, và đi đến xứ sở ở phía Đông. “Tôi đã đến đó một
lần khi tôi còn là một đứa trẻ. Giờ tôi sẽ đi một lần nữa và sẽ xây nhà cho các
người tại đó. Tôi sẽ đi một mình vì tất cả đàn ông đều cần có mặt ở nơi đây.
Tôi sẽ trở lại sau một thời gian.”
Chúng tôi
đi ra ngoài và thu gom trái cây, tôm cua cho ông. Ông rời Ghalas-at vào một
ngày đẹp trời. Ông đi trên một chiếc xuồng to nhất. Xuồng chở nước và thực phẩm
cho chuyến đi. Ông chèo chầm chậm giữa những khối đá và qua các bãi tảo. Mặt trời
buổi sáng tạo một vệt sáng trên mặt nước. Ông chèo theo con đường đó về phương
Đông cho đến khi chúng tôi không còn thấy ông nữa.
Một tháng
sau, chúng tôi bắt đầu trông ra biển. Mỗi ngày, ngay cả những ngày bão tố, cũng
có người đứng trông và chờ đợi ông Kimki trở về.
Nhiều tháng
trôi qua, chúng tôi trông ngóng và chờ đợi.
Mùa đông đi
qua và mùa xuân lại đến, nhưng mặt biển vẫn vắng bóng người. Mùa xuân chấm dứt,
mùa hè bắt đầu. Ông Kimki vẫn không về.
Đã đến mùa
bọn Aleut đi săn rái cá. Dân làng chúng tôi trông chừng xem các cánh buồm màu đỏ
của bọn chúng có đến hay không. Giờ đây chúng tôi chỉ có tám người đàn ông khỏe
mạnh để bảo vệ chúng tôi.
“Nếu như bọn
Aleut đến, chúng ta không thể ngăn cản bọn chúng.” Dân làng nói. “Chúng sẽ giết
chúng ta.”
Chúng tôi
quyết định sẽ rời đảo nếu như chúng tôi thấy tàu của bọn chúng.
Cá muối,
trái cây và nước được để trong xuồng. Chúng tôi giấu xuồng dưới những dốc đá
cao. Khi tàu của bọn Aleut đến, chúng tôi sẽ chèo đi. Chúng tôi hi vọng sẽ đến
miền đất ở hướng Đông.
Mỗi đêm,
vài người chúng tôi canh chừng bờ biển. Một đêm nọ, tiếng la của một người canh
đánh thức tất cả mọi người.
“Bọn Aleut,
bọn Aleut!”
Chúng tôi
nhanh chóng choàng dậy và gói ghém một ít đồ đạc. Tôi chụp lấy cái váy bằng cỏ
và cái áo khoác bằng da rái cá. Cái váy rất đẹp. Tôi cần cái áo khoác vì nó sẽ
giúp tôi khỏi bị lạnh khi đi xuồng.
Một lúc sau
đó, Nanko, người la báo động trên bờ đã theo kịp chúng tôi. Anh nói chuyện với
Matasaip. Matasaip là thủ lĩnh mới của chúng tôi. Anh được chọn khi ông Kimki
không trở về. Anh nói:
“Tàu đã đến
gần bờ. Không phải tàu của bọn Aleut. Tàu này nhỏ hơn tàu bọn chúng, những cánh
buồm màu trắng.”
Matasaip
nói với Nanko: “Tôi sẽ trở lại bãi biển với anh.” Sau đó anh nói với chúng tôi:
“Ra chỗ chúng ta giấu xuồng và chờ đợi tôi.”
Trời lạnh
ngắt, nhưng chúng tôi không phải chờ đợi lâu. Đã có người chạy đến chỗ chúng
tôi. Đó là Nanko, anh đến với lời nhắn của Matasaip. Gương mặt anh trông tươi
vui. Chúng tôi biết không có chuyện gì nguy hiểm.
“Nói nhanh
lên!” Chúng tôi la to.
“Tôi mệt quá!”
Anh nói. “Nói không ra hơi.”
“Thì đang
nói đó!” Có ai nói.
“Nào nói
đi, Nanko, nói đi.” Nhiều người
khác la lên.
Nanko
khoái chí bởi vì nhiều người trông chờ anh nói. Anh nhìn vào mặt mọi người đoạn
mỉm cười.
Sau
đó anh chậm rãi nói: “Chiếc tàu của bạn bè chúng ta.
Có những người da trắng trên tàu. Họ đến từ chỗ ông Kimki đến.”
“Vậy ông Kimki có trở lại
không?”
“Không, nhưng ông nói với
những người da trắng chúng ta ở đây.”
“Trông bọn họ ra sao?”
Chị Ulape hỏi.
“Có thằng bé nào trên
tàu không?” Ramo hỏi.
Mọi người đều lên tiếng
hỏi, Nanko đưa bàn tay anh lên. Anh nói:
“Tàu đến để đưa chúng
ta đi. Đó là lý do duy nhất.”
“Nhưng đưa chúng ta đi
đâu?” Tôi hỏi.
“Tôi không biết.” Nanko
nói. “Nhưng Kimki biết, và người da trắng sẽ đưa chúng ta đến đó.”
Chúng tôi bèn quay trở
lại làng. Mọi người đều e ngại sự thay đổi trong cuộc sống. Nhưng chúng tôi
cũng vui mừng.